Phật Thuyết Kinh đại Tát Già Ni Kiền Tử Sở Thuyết - Phẩm Ba - Phẩm Nhất Thừa - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI TÁT GIÀ NI
KIỀN TỬ SỞ THUYẾT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM BA
PHẨM NHẤT THỪA
TẬP BA
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền dùng kệ khen ngợi hạnh tinh tấn Ba la mật như sau:
Nếu muốn vì chúng sinh
Tu hành hạnh Bồ Tát
Mau thành đạo vô thượng
Tinh tấn là đệ nhất.
Như Lai vô lượng kiếp
Đã tu các hạnh khổ
Tất cả đều nhẫn nhục
Không sinh sợ hãi vậy.
Vì thế, các Phật Tử!
Muốn mau thành Phật đạo
Luôn siêng năng tu hành
Tinh tấn Ba la mật.
Bồ Tát hành tinh tấn
Mau đến chỗ thù thắng
Trải qua trăm ngàn nước
Cúng dường hầu Chư Phật.
Bồ Tát cầu đại thừa
Vì dứt khổ chúng sinh
Tu hành đạo Bồ Tát,
Vững chắc không lay chuyển,
Vô số trăm ngàn kiếp
Luôn vì các chúng sinh
Chịu khổ không lười biếng
Đều do tinh tấn vậy.
Ta nguyện thường tinh tấn
Làm thanh tịnh Cõi Phật
Kế đến nguyện hiểu rõ
Tất cả pháp Chư Phật
Biến khắp các Cõi Phật
Chuyển xe lớn diệu pháp
Nguyện các loài chúng sinh
Tất cả đều hiểu biết,
Vào hết trong đại thừa
Lìa thừa khác, cõi ma
Đầy đủ các nguyện lớn
Mau đến chỗ vô úy.
Bồ Tát tinh tấn thế
Chỉ ở trong một niệm
Ngộ pháp lớn bồ đề
Khai mở cửa Niết Bàn,
Hóa làm vô số thân
Biến khắp mười phương cõi
Vì lợi ích chúng sinh
Chỉ dạy việc thù thắng.
Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười hai cách quán hạnh Thiền Ba la mật, được lợi ích lớn. Vậy, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật.
Những gì là mười hai?
1. Thiền định có khả năng diệt trừ tất cả những cấu nhiễm phiền não, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật, luôn luôn không có tâm phân biệt.
2. Thiền định tâm trụ nơi vắng lặng, niệm không tán loạn, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật, không chấp các cảnh giới.
3. Thiền định tâm không chấp trước, đầy đủ các hạnh, Bồ Tát nên học Thiền Ba la mật vì có khả năng vượt qua ba cõi.
4. Thiền định có thể vượt ra khỏi thế gian, không chấp vào các cõi, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật để vượt qua thế gian.
5. Thiền định có thể quán chiếu pháp thù thắng, tâm không mệt mỏi, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật không bao giờ cho là đầy đủ.
6. Thiền định được nhu hòa, tự tại, nhưng không lệ thuộc vào các thiền, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật, tự tại thay đổi các bậc thiền.
7. Thiền định đạt được tâm vô tướng, không thấy các vật, Bồ Tát nên tu thiền Ba la mật để lìa các tướng.
8. Thiền định tâm được trong sáng, thấu tỏ vô số cảnh giới, Bồ Tát phải tu thiền Ba la mật, để vượt qua các tam muội hữu lượng và vượt các điều đáng chê trách.
9. Thiền định có khả năng chấm dứt tâm quán, không thấy có năng quán, Bồ Tát phải tu thiền Ba la mật vì được tâm vắng lặng.
10. Thiền định chứng được tâm điều hòa, diệt các giác và quán, các căn không còn dao động, Bồ Tát phải tu thiền Ba la mật, vì đắc được tâm điều phục.
11. Thiền định thì tâm được tịch diệt, nhất quán, các căn không dao động, Bồ Tát phải tu thiền Ba la mật vì nó chế ngự được những căn bất thiện.
12. Thiền định thì tâm đối với các pháp co được phương tiện lớn, Bồ Tát phải tu thiền Ba la mật, vì không xả tâm đại Bồ Đề.
Vì sao?
Vì các Bồ Tát luôn ở trong thiền định Ba la mật thì không phát khởi tâm kiêu mạn. Vì ở trong thiền định Ba la mật thì không khởi tâm tà kiến. Vì ở trong thiền định Ba la mật thì không khởi tâm thương ghét. Vì thế, các vị Bồ Tát có thể học và hàng phục tất cả thiền định của Thanh Văn, Bích Chi Phật, ngoại đạo phạm hạnh để đưa vào thiền tam muội.
Này thiện nam! Đó là mười hai cách tu hành thiền định Ba la mật, được lợi ích lớn, hồi hướng về quả vị Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác của Đại Bồ Tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền dùng kệ ca ngợi thiền Ba la mật như sau:
Muốn tu trí vô lậu
Ra khỏi bùn lầy dục
Diệt trừ các nghiệp chướng
Thiền định là đệ nhất.
Thiền định khó nghĩ bàn
Là cảnh giới Chư Phật
Nhị Thừa, các phàm phu
Tam muội không thể biết.
Đất lớn các núi biển
Kiếp lửa có thiêu hết
Nếu tâm trụ thiền định
An ổn không tổn hại,
Mặt Trời tuệ của Phật
Ngọc ma ni vô lậu
Không từ nơi khác sinh
Sinh từ biển thiền định,
Cho nên các Phật Tử
Cầu báu đại trí Phật
Nên trừ tâm tán loạn
Niệm thiền Ba la mật.
Thiền định các Bồ Tát
Diệt trừ những phiền não
Cho nên người trí nói
Tu thiền là bậc nhất.
Tâm sâu thường vắng lặng
Không thích các cảnh giới
Hay gồm những loạn tâm
Trụ nơi thắng Niết Bàn,
Bồ Tát tu thiền định
Không sinh trong Tam Giới
Cho nên không dựa vào
Không phải chỗ nương ở,
Thiền, Bồ Tát vượt qua
Thế gian xuất thế gian
Bởi thế, thắng tam muội
Vượt thế gian Nhị Thừa.
Vì thế, xoay chuyển qua
Sinh ở trong Cõi Dục
Thiền của Bồ Tát tu
Hơn hẳn mọi thù thắng,
Các thừa chẳng cứu cánh
Nên Phật nói thù thắng
Lìa các tướng chúng sinh
Và lìa các pháp nhơ.
Cho nên, các Bồ Tát
Tu thiền định thù thắng
Chinh phục thiền định khác
Và các thiền nông cạn
Bồ Tát một mực quán
Thanh tịnh các cảnh giới
Tu thiền định như vậy
Từ phương tiện tuệ sinh,
Chánh trí làm căn bản
Không khởi tâm tà kiến
Cho nên thiền Bồ Tát
Không thể nào nghi ngờ.
Bồ Tát nhập thiền định
Không trụ có và không
Vì quán thật cảnh vậy
Hay lìa tướng có, không,
Thiền thắng trí như thế
Không giống cảnh giới khác
Tuệ La Hán, Bích Chi
Không thể so sánh được.
Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười hai cách quán tu hành bát nhã Ba la mật, được lợi ích lớn. Vậy, Bồ Tát nên tu bát nhã Ba la mật.
Những gì là mười hai?
1. Bát nhã có thể xa lìa nhơ bẩn, phát ra ánh sáng, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật vì có khả năng lìa các pháp đen tối.
2. Tu bát nhã chắc chắn hiểu rõ một cách thông suốt về những điều mờ mịt, chướng ngại, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật, vì hay chiếu sáng, dẹp sạch rừng phiền não.
3. Bát nhã có thể phóng ra ánh sáng trí tuệ, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật, vì xa lìa tất cả các điều không trí tuệ.
4. Bát nhã như cày ruộng diệt trừ các loại cỏ xấu, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật, vì có khả năng nhổ sạch gốc rễ vô minh.
5. Bát nhã như chiếc móc sắt sắc bén, tùy ý móc rách Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật, vì có khả năng móc sạch các lưới ái dục.
6. Bát nhã như chày Kim cang không bị các vật làm hư hoại, Bồ Tát phải tu tuệ Ba la mật, vì có khả năng đập nát núi phiền não.
7. Bát nhã như vầng mặt trời lớn, vượt ra khỏi những đám mây che lấp, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật, vì có khả năng làm khô cạn tất cả các bùn ướt phiền não.
8. Bát nhã như đống lửa lớn thiêu đốt những cỏ xấu, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật, vì có khả năng thiêu đốt rừng cây phiền não.
9. Bát nhã như ngọc Ma ni chiếu sáng khắp tất cả, Bồ Tát phải tu tuệ Ba la mật, vì tâm không tối tăm, không mê mờ các pháp.
10. Bát nhã có thể trụ ở địa vị chân thật hoàn toàn tịch diệt, Bồ Tát phải nên tu tuệ Ba la mật, vì không có sở hữu.
11. Bát nhã diệt trừ các hình tướng, tâm không phân biệt, Bồ Tát nên tu tuệ Ba la mật vì không có hình tướng vậy.
12. Bát nhã có thể thành mà không nguyện, tâm không cầu khoái lạc, Bồ Tát phải tu tuệ Ba la mật, vì vượt qua ba cõi vậy.
Này thiện nam! Đó gọi là mười hai cách tu hành trí tuệ Ba la mật, được lợi ích lớn của Đại Bồ Tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ca ngợi trí tuệ Ba la mật:
Rốt ráo đoạn các hữu
An ổn vào Niết Bàn
Trong các Ba la mật
Trí tuệ là đệ nhất.
Như ngọn đèn thế gian
Phá tan các bóng tối
Như ngọn lửa bốc cao
Quán tối thắng trong đời,
Tất cả Đức Như Lai
Ra khỏi nghiệp sinh tử
Thu phục bốn chúng ma
Trí tuệ là mãnh tướng.
Nếu các Phật Tử muốn
Tự lợi và lợi tha
Thường phải siêng tu nghiệp
Bát nhã Ba la mật,
Giống như người cày đất
Hay trừ các cỏ xấu
Trí diệt cỏ ngu, ái
Như người cày sạch đất.
Chày Kim Cang Đế Thích
Diệt A Tu La ác
Trí phá núi phiền não
Hoại sạch cũng như thế,
Tất cả Đức Như Lai
Nói năng lực trí tuệ
Như trăng vào mùa hạ
Cũng như đèn thế gian,
Khô cạn biển phiền não
Chiếu trừ tối vô minh
Vì thế vượt thế gian
Ngọn lửa sáng vô lậu,
Trí tuệ hay chặt đứt
Cây vô minh tăm tối
Như cây dao sắc bén
Cắt tiệt các cỏ xấu,
Trí như ngọc ma ni
Bình đẳng chiếu thế gian
Như không chẳng phân biệt
Không trụ cõi Niết Bàn,
Trí tuệ tâm tự tại
Quyết định ở tất cả
Đoạn trừ các nghi hối
Dứt hẳn các hoài nghi,
Nói nghiệp ác thế gian
Và nêu quả Niết Bàn
Thấy khắp các chúng sinh
Như tối thấy ánh sáng,
Chư Phật mặt trăng sáng
Hiện thấy các pháp tướng
Các Bồ Tát cũng vậy
Tu tập trí vô cấu,
Như đi đêm cầm đuốc
Đến đâu đều sáng cả
Trong sinh tử tối tăm
Tuệ sáng vượt qua khỏi.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba