Ý NGHĨA CỦA SỰ CAN ĐẢM
Khi một vị tăng xin đăng nạp vào trong một thiền viện để tu tập, lúc đến tiền điện của thiền viện ấy, vị tăng bỏ nón ra cất đi trong một góc nhà, trèo lên bực thang, và lên tiếng gọi.
Trong một đại thiền viện, thường có tiền điện lớn mênh mông và một bực thang dẫn lên một giải hành lang rộng lớn ngoài xa. Tuy rằng có thể có đến khoảng mấy tá tăng sĩ đang tu tập ở trung tâm của thiền viện, chung quanh bốn bề đều không một tiếng người, không khí im lặng như một cái nhà mồ. Vị tăng gọi lớn, giọng ngân dài, “Quý thầy ơi! Xin mở cửa cho tôi!”, một thủ tục đã được lập ra từ thời xa xưa đến giờ.Vị tăng xin đăng nạp cảm thấy như giọng nói của mình bị hút vào trong khoảng không gian sâu thẳm của thiền viện. Bấy giờ, có tiếng trả lời từ đàng xa. “Ai đấy?” Một vị sư xuất hiện, mặc y áo bằng vải thô và trông có vẻ rất kinh nghiệm. “Anh đến từ đâu?” Ông tra hỏi.
Vị tăng trẻ đứng trên bực thềm đưa tay ra trước mặt lễ phép trình giấy tờ mang theo. Trong những giấy tờ đó có đăng lục của tiểu sử cá nhân, một thơ giới thiệu vào thiền viện, và một thỉnh nguyện thư trong đó ông nguyện sẽ hi sinh cuộc đời mình cho đạo pháp, tất cả đều viết tay với bút lông và cho vào một phong bì.
Một cách thật trịnh trọng, người mới đến xưng danh tính và nói rõ xuất xứ của mình đến từ quận huyện nào, thành phố nào, ở chùa nào, và đã học với vị thầy nào. Vị tăng nói rằng ông muốn đến đây để gia nhập chúng và có thể treo y bát, gậy của mình ở trong thiền đường nơi đây. Sau đó ông xin cho lời thỉnh nguyện ấy được chấp nhận.
Vị sư bảo thí sinh đợi ở đấy rồi biến mất vào phía trong. Một lúc lâu sau trở lại, theo đúng nguyên tắc, vị sư sẽ không nói rằng:”Xin đón chào anh đến đây. Mời đi vào trong.” Thay vào đó, thế nào vị sư cũng đưa lệnh ra là lời thỉnh nguyện của thí sinh đã bị từ chối. Ví dụ như, vị sư có thể nói rằng thiền viện đã đủ chỗ rồi, hay lúc này phương tiện rất eo hẹp, không thể nào kham nổi thêm một người nữa.
Trường hợp của tôi là, bây giờ tôi cân tới 150 cân Anh, nhưng hồi ấy tôi chỉ nặng chưa đến 90 cân và trông toàn là da bọc xương khi đến đó xin vào thiền viện. Tôi bị từ chối với lý do là, “Trông anh có vẻ yếu ớt quá. Sẽ không thể nào đủ sức để theo kịp sự tu tập gắt gao ở đây. Xin hãy đến thiền viện khác mà nạp đơn.”
Có khoảng chừng bốn mươi thiền viện chuyên tu trong cả nước, nhưng bất cứ đến chỗ nào, vị tăng cũng sẽ bị từ chối ở đó. Bị bác rồi, vị tăng cầm lấy cái phong bì bị ném vào mặt lúc nẫy, rồi rút lui vào một xó để không cản trở người qua lại. Oâng trụ vào một chỗ trên bực thềm, phủ phục xuống, trán áp xuống đất trong tư thế khẩn cầu cho tới khi nào được chấp nhận gia nhập thiền viện.
Bồ Đề Đạt Ma, sơ tổ của Thiền tông Trung Hoa, là một tăng sĩ xuất thân từ Ấn Độ trong thế kỷ thứ 6, cũng là vị tổ chân truyền đời thứ hai mươi tám kể từ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tục truyền rằng Huệ Khả (tiếng Nhật gọi là Eka), người sau này kế thừa Bồ Đề Đạt Ma làm vị tổ thứ hai của thiền tông Trung Hoa, khi đến đó xin học đạo, Tổ Đạt Ma đã hoàn toàn không thèm biết đến ông. Huệ Khả đứng ở cổng và nhất định không chịu di chuyển cho đến khi được Tổ Đạt Ma nhìn tới.
Mấy ngày liền, Huệ Khả đứng yên vị ở một chỗ. Đến ngày 9 tháng 12, tuyết bắt đầu rơi phủ kín đến đầu gối của ngài, nhưng ngài vẫn đứng yên không nhúc nhích. Cuối cùng, Tổ Bồ Đề Đạt Ma quay ra nhìn Huệ Khả và hỏi: “Ngươi làm gì ở đây?”
Khi nghe được tiếng của thầy sau bao nhiêu ngày chờ đợi lâu dài, Huệ Khả, những giọt lệ biết ơn tuôn trào trên má, trình bày ý nguyện muốn đến để cầu đạo giải thoát. Bồ Đề Đạt Ma trả lời một cách phũ phàng, “Đạo vi diệu, đạo vô thượng của Phật chỉ có thể đạt được qua những nỗ lực vô tận, qua sự hành trì cái không thể hành được, chịu đựng điều không thể chịu đựng được. Nay ngươi chỉ có một chút đạo hạnh, một ít trí tuệ nhỏ nhoi, với một tâm nông cạn và đầy ngã mạn, làm sao có thể mong đạt tới chân pháp được?”
Như vậy, Huệ Khả đã bị nói thẳng ra rằng chỉ với một ít trí tuệ, một ít khả năng và một tâm si mê đầy giao động, sẽ không thể nào mong đạt sự giác ngộ chân lý và an lạc được. Để trả lời sự khích bác của Tổ Bồ Đề Đạt Ma và chứng minh rằng ý chí quyết tâm cầu đạo của mình là hoàn toàn chân thật, tương truyền rằng ngài đã rút dao phay ra chặt mất cánh tay của mình. Chỉ khi ngài dâng lên cánh tay bị chặt đẫm máu ấy, Bồ Đề Đạt Ma mới chịu chấp nhận cho ngài vào học đạo.
Bắt nguồn từ truyền thống này, những nghi thức để nhập thiền viện tu tập thật cực kỳ cam go, ngay cả bây giờ vẫn áp dụng sau một ngàn năm trăm năm. Tôi đã biết ngay từ đầu là tôi cũng sẽ phải tuân theo những luật lệ của truyền thống này. Do đó, đầu tiên tôi đã bò qua cổng, sửa soạn tinh thần để chịu đựng cái thủ tục không thể tránh khỏi này.
Mặc dù vậy, dù chỉ là thủ tục, điều tôi phải chịu đựng cũng thật là khó khăn. Chẳng bao lâu sau khi đơn xin của tôi đã bị từ chối, một vị sư khác xuất hiện, cầm theo một cây gậy bằng gỗ. “Mặc dù người đã bị từ chối không cho nhập viện, ngươi vẫn ngoan cố chường mặt ở đây làm phiền người khác, làm cản trở lối ra vào của thiền viện,” ông nói, “yêu cầu ngươi phải đi ra khỏi đây ngay lập tức.”
Từ trước cho tới lúc đó, tôi vẫn còn được nghe những lời nhã nhặn, nhưng bây giờ thì những câu mắng chửi bắt đầu, mặc dù vậy, tôi vẫn không chịu rút lui. Tôi cứ tiếp tục ở yên chỗ của mình, không động đậy chút nào.
“Ê! Tên kia! Bộ ngươi điếc hay sao?”
Vị sư tiếp theo câu chửi mắng kia với những cú đấm, cú đá, và nguyền rủa hết lời, và chỉ một lúc sau tôi đã thấy mình bị đá văng ra khỏi cổng. Khi tôi ngẩng lên thấy vị sư đã đi vào trong rồi và lối vào đã trống trải, tôi lại len lén đi vào, như một con mèo đang rình mồi, và lại tiếp tục tư thế phủ phục trên bậc thềm. Sau đó, cảnh trên lại tiếp tục xảy ra nhiều lần.
Sự nhẫn nhục của tôi khởi đầu còn tồn tại là vì tôi biết rằng đây là một thủ tục mà tôi phải chịu đựng qua, nhưng dần dần, khi nó cứ kéo dài, tôi bắt đầu thấy bực dọc. “Họ không thấy là họ đã quá đáng một cách không cần thiết sao, khi mình không hề có một chút chống trả lại?” Tuy nhiên, đến tối, những ý tưởng này cũng chẳng còn, và tôi chỉ còn cảm thấy khốn khổ và tủi nhục. Rồi tôi càng lúc càng thương xót cho mình. “Tại sao mình lại để cho họ đối xử như một cái giẻ rách vậy?” Tại sao tôi phải ở trong tư thế khốn nạn này trước cánh cổng đáng ghét này? Cha mẹ của tôi chết rồi, nhưng dù sao tôi cũng vẫn còn trở về Toyama được mà. Tôi vẫn còn họ hàng ở đó, tôi vẫn có thể sống được mà không phải bị đối xử tàn nhẫn như thế này.”
Tất cả những điều đó và nhiều điều nữa đã băng ngang tâm trí tôi lúc đó.
Khi được thọ giới xuất gia, tôi đã phần nào mang một quyết tâm muốn tu hết sức mình. Sau đó, khi Lão sư nói với tôi, “Đây là món tiền Niết Bàn, để mai táng thân ngươi,” tôi đã lại lạnh mình trong một quyết tâm mới. Rồi, khi Lão sư cột lại dây giầy rơm cho tôi và khuyến cáo rằng, “Đừng có lơ là mà làm lỏng những dây này,” chẳng phải là lúc đó tôi đã càng thêm quyết chí, nhất định phải đi đến cùng đó sao? Nhưng bây giờ tôi ở đây, chỉ chưa đầy một ngày sau đó, tâm đã đầy dao động, tự hỏi mình tại sao lại ở đây, sao lại phải chịu cảnh khốn cùng như thế này.
Tôi nghĩ rằng con người ta rất là yếu đuối. Nếu không biết tự kỷ luật mình, người ta sẽ không thể tin vào ý chí của mình được. Rất dễ dàng để bị lung lạc. Khi tôi thấy mình đang bị lung lạc, lần đầu tiên tôi đã hiểu được sự hệ trọng của việc tiếp tục bò lại vào trong chỗ tiền đường. Sự tiếp tục bò lại chỗ cũ này được gọi là “bị giữ đứng ở ngoài vườn.” Trong tình trạng bị giữ ở ngoài vườn và đứng đó, vị tăng bị bắt buộc phải làm mới lại quyết tâm ban đầu, phải tăng cường cho quyết tâm đó, phải quyết tâm trở lại, và củng cố sự quyết tâm đó càng xa hơn nữa. Chính vì lý do này mà vị tăng bị bắt phải ở ngoài cửa ra vào tiền đường của thiền viện.
Tất cả răng của tôi … vốn chẳng mạnh khỏe gì … bắt đầu cảm thấy như đang long ra, máu nóng trào lên mặt. Tôi nghĩ chắc đôi mắt của tôi như muốn nổ ra khỏi xương sọ, và lưng tôi, với vị thế phủ phục lâu dài như vậy, cũng muốn sụm xuống. Trời vẫn còn lạnh khi tôi đến tiền đường vào đầu tháng ba, vì năm đó tiết mùa đông đã thật khắc nghiệt ở Kyoto. Cái lạnh bắt đầu từ mấy ngón chân, thấm qua chân tôi trong đôi giầy rơm ướt đẫm, và dâng lên đến đầu gối, khiến đôi chân tôi tê dại, không còn một cảm giác gì nữa.
Trực diện với con người bất an của mình, trong bất cứ điều kiện nào, và rồi trở về với cái tâm của lúc ban đầu, tự mình đứng dậy sau khi tâm đã thay đổi, suy yếu, và sụp đổ, để rồi củng cố trở lại cái quyết tâm muốn hoàn thành tới nơi lời nguyện ban đầu … phải chăng đây chính là ý nghĩa của sự can đảm?
Tôi đang làm gì ở đây?
Trong lúc chờ đợi ngoài cổng chùa, tôi bắt buộc phải định nghĩa lại thế nào là sự dũng cảm. Khi còn nhỏ, tôi thường hay phô trương sự dũng cảm của mình bằng cách tấn công người khác, nhưng đó không phải là dũng cảm. Sự hung hăng đó có thể ví như một con chó nhỏ mà hay sủa thật to. Sự dũng cảm đích thực là chấn chỉnh lại cái tinh thần đã sa sút và kiên tâm theo đuổi mục tiêu ban đầu của mình. Để có thể giữ vững được như vậy, phải tự đặt câu hỏi với mình là: “Tôi đang làm gì ở đây?”
Trong khi bị giữ ở ngoài vườn, nhiều tư tưởng khác nhau đã trôi qua trong tâm trí tôi. Tôi nghiệm ra rằng mỗi con người được vào tu trong thiền viện này đều bẩm sinh ra khác nhau. Mỗi con người đi vào trong cuộc đời này đều có những khả năng khác nhau, những kinh nghiệm và học vấn khác nhau, suy nghĩ những tư tưởng khác nhau; không ai giống ai cả. Trong tất cả những sắc thái dị biệt ấy, nếu ai nấy ở trong thiền viện đều muốn làm theo ý của mình, đều khăng khăng rằng, “Tôi nghĩ như thế, tôi làm như thế đấy,” thì việc tu hành rồi sẽ ra làm sao?
Có câu ngạn ngữ rằng, “Rượu mới đổ vào bình mới”. Nếu muốn chuyển hóa bản thân mình bằng cách đem thân đến thiền viện để tu tập, thì đó cũng có thể được ví như cái bình mới, và như thế cần phải xả bỏ hết những kinh nghiệm quá khứ, những kiến thức, và địa vị xã hội của mình. Người thiền sinh phải trở nên trống rỗng hoàn toàn và đi vào trong thiền viện với một tâm khiêm tốn, nhẫn nhục. Ở trong cái xó góc trước cổng chùa này, người sa di thiền sinh bị bắt buộc phải nghĩ cho thấu suốt tất cả những điều ấy và dọn mình để hành động cho thích hợp.
Trong buổi tối ngày thứ ba bị giữ ở ngoài vườn chờ đợi, một vị sư đi ra thông báo với tôi rằng: “Xét rằng kể từ hôm kia tới nay, ngươi vẫn giữ nguyên vị trí ở trước cổng ra vào mặc dù đã bị mắng chửi, đánh đập; nay ra quyết định rằng: ngươi có vẻ cũng có ý chí muốn tu tập, vì thế, ngươi được phép bước vào trong. Tuy nhiên, vì chưa được chấp nhận chính thức vào tu tập ở đây, nên ngươi phải luôn luôn cẩn trọng.” Với những lời nói đó, cuối cùng tôi đã được bước chân vào thiền viện.
Căn phòng tôi được phép vào gồm có một bên là tường và ba bên là liếp cửa bằng giấy mở toang. Tôi đặt cái hộp đồ vẫn đeo trên lưng vào cạnh tường, rồi ngồi xuống đối diện vách tường và bắt đầu tọa thiền. Không có cách gì biết ai đang nhòm ngó mình từ ba vách trống trải kia. Lúc này là lúc tôi không thể nào lơ đễnh được.
Ban ngày tôi được cho ăn ba lần và ban đêm được phát chăn chiếu ngủ, nhưng vẫn phải ở năm ngày nữa trong phòng này; như thế, tôi đã bị đặt mình trong sự tự vấn thật căng thẳng suốt trong tám ngày liền. Tôi đã tự hỏi mình biết bao nhiêu lần, “Tôi đang làm gì ở đây? Tôi sẽ làm gì bây giờ?” Dưới áp lực của sự tự vấn này, buộc mình tôi luôn luôn phải quay trở về cái khởi điểm, về cái tâm ban đầu trong sự tu tập của tôi.
Đã bao lần tôi đã trở lại cái khởi điểm ấy, đã bao lần tôi khẳng định lại quyết tâm của mình. Tôi tin rằng sự dũng cảm là kiên trì theo điều mình đã quyết định làm và chịu đựng tất cả những khó khăn gặp phải trên đường. Giữ vững và làm được cái ý định ban đầu ấy — chỉ một điều ấy thôi — cũng đã là dũng cảm thực sự rồi.
“Thầy an cư tại Tu viện, con an cư ở đâu?”