Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Ba - Pháp Hội Bất Thuấn Bồ Tát - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI BA

PHÁP HỘI BẤT THUẤN BỒ TÁT  

PHẦN HAI  

Bất Thuấn Đại Bồ Tát lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thành tựu pháp gì thì được nhất thiết chư pháp tự tại tam muội như vậy?

Đức Phật phán dạy: Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát đầy đủ một pháp thì có thể được tam muội ấy đó là chẳng trụ trước tất cả các pháp. Còn có một pháp đó là chẳng trụ trước cấm giới, tại sao, vì chẳng trụ trước cấm giới thì chẳng trụ trước tất cả thiện pháp, vì đầy đủ cấm giới thì có thể thành tựu tất cả Phật Pháp được lợi ích lớn vô thượng đại đạo, vì vậy mà Phật nói giới là căn bổn tất cả pháp lành, giới tên là đèn sáng lớn.

Nếu trụ trước nơi cấm giới thì người này ở nơi bồ đề bị chướng ngại, chẳng phải đạo bồ đề. Nếu ở nơi các pháp mà có trụ trước thì cách đạo bồ đề rất xa.

Nếu không tham trước thì gần kề đạo bồ đề. Còn có hai pháp mà Bồ Tát đầy đủ thì có thể được tam muội ấy. Một là vì bồ đề phương tiện mà tu tập xa ma tha, hai là vì thiện pháp phương tiện mà tu tập Tỳ Bà Xá Na. Còn có ba pháp mà Bồ Tát đầy đủ thì có thể được nhất thiết chư pháp tự tại tam muội ấy.

Một là chẳng bỏ chúng sanh mà tu không tam muội.

Hai là chẳng bỏ các pháp mà tu vô tướng tam muội.

Ba là cầu các hữu mà tu vô nguyện tam muội.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Điều phục chúng sanh tu không định

Vì hộ pháp tu vô tướng định

Chẳng bỏ các hữu tu vô nguyện

Người này thì được tự tại định.

Còn nữa, này thiện nam tử! Có bốn pháp mà Bồ Tát đầy đủ thì được tam muội ấy.

Một là đầy đủ Tứ Đế phương tiện.

Hai là đầy đủ tứ vô lượng tâm.

Ba là đầy đủ tứ vô ngại trí.

Bốn là đầy đủ tứ nhiếp pháp.

Còn có năm pháp mà Bồ Tát đầy đủ thì có thể được tam muội ấy!

Một là đầy đủ ngũ thần thông.

Hai là đầy đủ ngũ căn.

Ba là đầy đủ ngũ lực.

Bốn là đầy đủ chân trí quán sát ngũ ấm.

Năm là đầy đủ ngũ nhãn.

Còn có sáu pháp mà Bồ Tát có đủ thì được tam muội này:

Một là đầy đủ sáu Ba la mật.

Hai là đầy đủ lục niệm.

Ba là đầy đủ trí huệ quán lục nhập.

Bốn là đầy đủ viễn ly lục đạo.

Năm là đầy đủ lục thông.

Sáu là đầy đủ sáu pháp hòa kính.

Còn có bảy pháp mà Bồ Tát có đủ thì được tam muội này:

Một là vô tham xa lìa phiền não.

Hai là với tất cả chúng sanh không giận thù.

Ba là ở trong các pháp không có tâm ngu si.

Bốn là có trí vô ngại không có năm cái chướng.

Năm là quán mười hai nhân duyên không nghi.

Sáu là thành tựu trí huệ vô thượng.

Bảy là thành tựu vô lượng tam muội.

Còn có tám pháp mà Bồ Tát đầy đủ thì được tam muội này:

Một là tu tập bát chánh đạo phần.

Hai là lìa bát tà đạo.

Ba là viễn ly bát nạn.

Bốn là đầy đủ Bát Đại Nhân Giác.

Năm là đầy đủ bát giải thoát.

Sáu là đầy đủ bát thắng xứ.

Bảy là chuyên niệm bồ đề.

Tám là dứt tập khí phiền não.

Còn có chín pháp mà Bồ Tát có đủ thì được tam muội này:

Một là chẳng thất niệm tâm.

Hai là hiểu nghĩa thậm thâm.

Ba là phá hoại ma nghiệp.

Bốn là đủ Phật tam muội.

Năm là tịnh thân khẩu ý.

Sáu là đầy đủ phương tiện.

Bảy là oai nghi thuần thiện.

Tám là siêng tu tinh tiến đủ sáu Ba la mật và chín là viễn ly Thanh Văn, Bích Chi Phật Đạo.

Còn có mười pháp mà Bồ Tát có đủ thì được tam muội này:

Một là đầy đủ Phật trí.

Hai là đầy đủ pháp giới vô phân biệt trí.

Ba là ở nơi tánh chân thiệt không động chuyển.

Bốn là đầy đủ tam thế bình đẳng trí huệ.

Năm là đầy đủ chúng sanh tâm bình đẳng trí.

Sáu là đầy đủ trí biết các căn thượng trung hạ.

Bảy là đầy đủ bốn trí vô ngại.

Tám là đầy đủ ba môn giải thoát.

Chín là đầy đủ trí các pháp đồng nhất vị.

Mười là đầy đủ trí các pháp vô sanh diệt.

Lúc Đức Phật nói pháp này, trong pháp hội có ba vạn hai ngàn Đại Bồ Tát được nhất thiết chư pháp tự tại tam muội.

Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi Bất Thuấn Đại Bồ Tát rằng: Nay trong đại chúng có ba vạn hai ngàn vị Bồ Tát được tam muội ấy, vậy nay Đại Sĩ có được tam muội ấy chăng?

Bất Thuấn Đại Bồ Tát đáp: Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề! Nhẫn đến không có một pháp được gọi là tam muội thì làm sao tôi lại được. Phàm nói là được đó là điên đảo, mà điên đảo là ngã ngã sở. Bồ Tát nếu có ngã ngã sở thì không thể được tam muội này.

Tôn Giả Tu Bồ Đề lại hỏi: Đại Bồ Tát trụ chỗ nào thì được tam muội này?

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Như pháp được trụ của Tu Bồ Đề mà được giải thoát ấy thì tôi trụ như vậy mà được tam muội này.

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Tôi thiệt chẳng trụ trong tất cả pháp mà được giải thoát.

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề! Cũng vậy, Đại Bồ Tát chẳng trụ các pháp mà được tam muội này.

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Thưa Đại Sĩ! Có lẽ Đại Bồ Tát chẳng trụ nơi không vô tướng vô nguyện mà được tam muội này ư?

Bất Thuấn Đại Bồ Tát hỏi: Không vô tướng vô nguyện có thể trụ được chăng?

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Không thể trụ được.

Bất Thuấn Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức! Vì vậy nên chỗ sở trụ không vô tướng vô nguyện là được tam muội này.

Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi: Thưa Đại Sĩ! Tam muội này trụ tại chỗ nào?

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Như tất cả pháp chân thiệt tánh trụ, người trụ tam muội này cũng trụ như vậy. Tất cả các pháp chân thiệt tánh đó gọi là vô sở trụ. Trụ vô sở trụ trụ trong tất cả pháp. Tất cả các pháp chẳng trụ phiền não chẳng trụ giải thoát.

Thưa Đại Đức! Người được giải thoát là có đủ phiền não hay là không có phiền não?

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Thưa Đại Sĩ! Tôi cũng chẳng có chẳng phải chẳng có.

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức! Nếu Đại Đức chẳng có chẳng phải chẳng có ấy thì Ngài được gì mà gọi là giải thoát?

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Thưa Đại Đức! Nếu giả sử pháp giới mà có hệ phược thì tôi được giải thoát, nhưng pháp giới tánh không có tướng hệ phược không có tướng giải thoát, chẳng phải tướng, chẳng phải tướng như, chẳng phải các thứ tướng, chẳng phải một tướng chẳng phải nhiều tướng, như tướng pháp giới, giải thoát cũng vậy.

Lúc Tôn Giả Tu Bồ Đề nói pháp ấy, trong đại chúng có tám ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán.

Tôn Giả Tu Bồ Đề lại nói với Bất Thuấn Đại Bồ Tát: Thưa Đại Sĩ! Như lời Đức Phật đã nói: Nếu có thể đầy đủ các pháp như vậy thì được nhất thiết pháp tự tại tam muội ấy, nay Đại Sĩ có đầy đủ tam muội này chăng?

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề! Tất cả các pháp không có căn trụ, nếu pháp không có căn thì là không có trụ, mà vô trụ thì gọi là vô tác, nếu đã là vô tác thì làm sao trụ được.

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Nếu vô trụ như vậy, tại sao Đức Như Lai thường nói rằng trụ pháp như vậy thì được vô sanh nhẫn?

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức! Vô sở trụ ấy cũng gọi là trụ, vì vậy mà Đức Như Lai cũng nói trụ tham mà được giải thoát, mà trí huệ tánh chẳng thể hoại tham trụ nơi giải thoát.

Nếu Bồ Tát biết được trụ chẳng trụ như vậy thì gọi là vô sanh trí huệ, trụ trong vô sanh trí huệ ấy rồi thì có thể được vô sanh pháp nhẫn.

Còn nữa, thưa Đại Đức! Nếu Bồ Tát chẳng rời phàm phu mà biết được Thánh Pháp, dùng tâm phàm phu quán sát Thánh Pháp, dùng Thánh Pháp tánh quán sát nơi nhẫn, dùng nhẫn tánh quán sát nơi nhẫn, lại dùng nhẫn như vậy quán sát tất cả pháp, biết tất cả như vậy thì gọi là vô sanh pháp nhẫn.

Còn nữa, thưa Đại Đức! Nếu Bồ Tát quán sát hai thứ giới là chúng sanh giới và pháp giới, dùng pháp giới tánh quán sát chúng sanh tánh, dùng chúng sanh tánh quán pháp giới tánh.

Nếu rời pháp giới thì không có chúng sanh giới, pháp giới và chúng sanh giới vô sanh vô diệt. Nếu có thể thông đạt biết như vậy thì gọi là vô sanh trí, vô sanh trí là vô sanh nhẫn.

Còn nữa, thưa Đại Đức! Đại Bồ Tát biết từ mười hai nhân duyên sanh các pháp, từ sáu cảnh giới làm sáu nhân duyên cho thiện hoặc bất thiện, thiện và bất thiện ấy là không sanh diệt, tại sao, vì tánh cảnh giới chẳng sanh các pháp được.

Như sáu cảnh sáu nhập cũng vậy, chẳng sanh được các pháp, tại sao, vì là tánh vô sanh vậy. Nếu sáu nhập ấy mà hay sanh được các pháp thì lẽ ra thường sanh mà chẳng cần duyên ngoài. Nếu sáu cảnh giới nó hay sanh được các pháp thì lẽ ra thường sanh chẳng cần duyên trong.

Còn nếu là chúng sanh thì có hai tướng, pháp hai tướng thì tánh của nó không chân thiệt. Bồ Tát Không đạt biết rõ như vậy thì gọi là vô sanh nhẫn. Nếu có chân trí huệ như vậy thì gọi là Bồ Tát được vô sanh nhẫn.

Còn nữa, thưa Đại Đức! Nếu Bồ Tát thành tựu đầy đủ hai thứ trang nghiêm công đức trí huệ quán hai sự này bình đẳng không hai, dầu biết như vậy mà không nói là tôi biết, cũng ở nơi sự biết ấy không tham trước, đây gọi là vô sanh nhẫn.

Còn nữa, thưa Đại Đức! Đại Bồ Tát thân ý tịch tĩnh quán pháp tịch tĩnh, pháp tịch tĩnh rồi quán bồ đề tịch tĩnh, bồ đề tịch tĩnh rồi quán nhẫn tịch tĩnh, cũng chẳng theo kia chẳng trụ trước nội ngoại, đây gọi là Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn.

Lúc Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói pháp ấy, trong chúng của Bất Thuấn Đại Bồ Tát có năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.

Đức Phật phán khen: Lành thay, lành thay, này Bất Thuấn! Như lời ngươi diễn nói về vô sanh pháp nhẫn tức là chân thiệt Chư Phật thuở trước đã nói.

Lại này thiện nam tử! Bồ Tát nếu được tâm tự tại thì được nhất thiết chư pháp tự tại tam muội.

Thế nào gọi là tâm tự tại?

Này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát xa lìa tham ái được thân Thiên Đế Thích hoặc được thân Chuyển Luân Vương, dầu vì vô lượng chúng sanh nói sự vui ngũ dục, nhưng nội tâm diệt chẳng tham trước thế dục, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát tu tập tam muội tứ vô lượng tâm, lúc cầu sanh các hữu chẳng dùng tâm các hữu mà dùng tâm trí huệ.

Dầu sanh Dục Giới mà chẳng nhân nơi dục tâm, tâm ấy chẳng hề xa lìa Tam Bảo thường tu tập trang nghiêm Sáu Ba la mật, dùng tứ nhiếp pháp nhiếp lấy chúng sanh, vì điều phục chúng sanh mà tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát tu tập không vô tướng vô nguyện, tự mình chẳng chứng không vô tướng vô nguyện mà vì chúng sanh diễn nói ba môn giải thoát ấy, vì điều phục hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật mà nhập vô sanh chánh định các môn tam muội rồi vì họ thuyết pháp, họ được nghe pháp rồi liền được giải thoát, mà mình thì không chứng đó, cũng làm cho chúng sanh chẳng bỏ bồ đề, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát vì điều phục hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật mà nhập khối vô sanh diệt chánh định, cũng được diệt tận định, còn có thể thông đạt tất cả tam muội xuất nhập hành tướng, dầu được thông đạt tự tại như vậy mà chẳng chứng nơi diệt tận định, tại sao, vì chưa đầy đủ Phật Pháp vậy, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát dùng trí bình đẳng quán sát pháp giới, các thứ thế gian, các loại chúng sanh, các thứ thuyết pháp, các thứ phương tiện, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát sanh Trời trường thọ chưa hết tuổi thọ trời mà thân cũng sanh trong loài đoản mạng vì để điều phục các chúng sanh, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát đồng với hạnh Thanh Văn và Bích Chi Phật mà tâm hộ niệm đạo bồ đề cũng tu hạnh vi diệu bồ đề, vì hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật mà tùy ý thuyết pháp nhưng chẳng chứng, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát khéo hiểu tám vạn bốn ngàn pháp môn, cũng thông đạt phiền não hành xứ, vì đoạn dứt phiền não cho các chúng sanh nên ở trong ấy thuyết pháp mà chẳng bị các phiền não làm nhiễm ô, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát đầy đủ thần thông, nếu có các chúng sanh đui điếc què thọt, Đại Bồ Tát tự biến thân đồng như họ mà thuyết pháp cho họ, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Lại này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát đầy đủ trí huệ thông đạt ngoại điển khéo hiểu tà luận, mà nội tâm chẳng bị tà kiến, chỉ vì muốn điều phục chúng sanh mà học tập đạo ấy, đây gọi là Bồ Tát tâm được tự tại.

Này thiện nam tử! Bồ Tát đầy đủ các sự như vậy thì gọi là tâm tự tại, cũng gọi là được nhất thiết chư pháp tự tại tam muội.

Tôn Giả Tu Bồ Đề bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Bất Thuấn Đại Bồ Tát được tam muội ấy đã bao lâu?

Đức Phật phán dạy: Này Tu Bồ Đề! Quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp, bấy giờ có Phật Hiệu Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, Thế Giới ấy tên Tịnh, kiếp ấy cũng tên là Tịnh.

Quốc Độ ấy bằng phẳng thất bảo trang nghiêm như Trời Đâu Suất, món ăn vật uống đều sung túc, các chúng sanh cõi ấy không có tham dục sân hận ngu si, phần đông có trí huệ hiểu được lời Phật dạy, tất cả đều có chí nguyện Đại Thừa Vô Thượng. Pháp Hội của Phật Tự Tại Vương có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, ba vạn hai ngàn Thanh Văn.

Lúc ấy thế gian có Chuyển Luân Thánh Vương tên Quảng trì hiệu là Pháp Vương có đủ thất bảo là luân bảo, tượng bảo, mã bảo, nữ bảo, châu bảo, binh bảo và chủ tạng bảo, đủ ngàn Vương Tử, trị tứ thiên hạ chỉ dùng chánh pháp không dùng dao gậy, thương mến chúng sanh dạy họ Thập Thiện Nghiệp, tất cả chúng sanh ấy cũng thích thọ trì.

Bấy giờ ngàn Vương Tử đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Thánh Vương Quảng Trì cúng dường Đức Như Lai Tự Tại Vương cùng chúng Bồ Tát chúng Thanh Văn tất cả đại chúng những món ăn uống thuốc men giường ghế y phục, những vật cần dùng mãn một vạn năm rồi, Nhà Vua phát tâm vô thượng Bồ Đề vì vô thượng đạo mà tu Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo.

Đức Phật Tự Tại Vương thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Vua có một Vương Tử tên là Pháp Ngữ do tín tâm mà xuất gia trong Phật Pháp ấy siêng tu tinh tiến thanh tịnh trì giới vì được Vô Thượng bồ đề đạo.

Pháp Ngữ Tỳ Kheo trong thời gian hai vạn năm không ngủ dầu chỉ là khoảng khảy ngón tay, chẳng sanh tâm tham tâm sân tâm si, cũng không có những giác quán bất thiện, chẳng nhớ tướng đến cha mẹ, thân tộc, quyến thuộc, ăn uống, y phục, phòng nhà, ngọa cụ, vật cần dùng, cũng chẳng hay biết tướng ngày tướng đêm. Trong hai vạn năm thường tu niệm Phật.

Do siêng tu tinh tiến mà Pháp Ngữ Tỳ Kheo được Tứ Thiền, Tứ Vô Lượng Tâm, Tứ Vô Sắc Định.

Quá hai vạn năm, Pháp Ngữ Tỳ Kheo đến chỗ Phật đầu mặt đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng đứng qua một phía bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi phát tâm Vô Thượng bồ đề vì ban cho tất cả chúng sanh sự an vui, vì muốn điều phục tất cả chúng sanh.

Mong Đức Thế Tôn thương xót chỉ bảo cho tôi làm thế nào được có thể giáo hóa chúng sanh tuyên nói chánh pháp.

Đức Tự Tại Vương Phật nói: Này Pháp Ngữ! Có tám môn Đà La Ni, nếu thành tựu thì được vô ngại ngữ có thể thuyết pháp cho chúng sanh.

Những gì là tám?

Một là niệm Phật vì biết pháp thân vậy.

Hai là niệm pháp vì biết tịnh pháp vậy.

Ba là niệm Tăng vì biết vô ngại vậy.

Bốn là chân thiệt tư duy vì phá ác giác quán vậy.

Năm là biết chữ vì bất khả thuyết vậy.

Sáu là tu xa ma tha vì biết các pháp đồng nhất vị vậy.

Bảy là tu Tỳ Bà Xá Na vì biết các pháp bổn tánh thanh tịnh vậy.

Tám là tu phương tiện trí vì được nhẫn vậy.

Này Tỳ Kheo! Có đủ tám môn Đà La Ni ấy thì kham có thể tuyên nói chánh pháp giáo hóa chúng sanh.

Này Tỳ Kheo! Còn có tám tinh tiến mà Bồ Tát có đủ thì có thể tuyên nói chánh pháp giáo hóa chúng sanh.

Một là cầu pháp siêng tinh tiến.

Hai là trì pháp siêng tu tinh tiến.

Ba là quán pháp siêng tu tinh tiến.

Bốn là thuyết pháp siêng tu tinh tiến.

Năm là hộ pháp siêng tu tinh tiến.

Sáu là cúng dường Pháp Sư siêng tu tinh tiến.

Bảy là thủ hộ người thọ pháp siêng tu tinh tiến.

Tám là như pháp mà trụ siêng tu tinh tiến.

Này Tỳ Kheo! Còn có tám pháp Bồ Tát có đủ thì có khả năng giáo hóa chúng sanh:

Một là tu từ vì bình đẳng quán chúng sanh vậy.

Hai là tu bi vì điều phục chúng sanh vậy.

Ba là quán pháp vì được pháp vô thượng vậy.

Bốn là quán trí vì phá kiêu mạn vậy.

Năm là hộ các chúng sanh vì ban an lạc vậy.

Sáu là thiện tư duy vì phá các phiền não vậy.

Bảy là tu pháp trợ đạo vì trang nghiêm bồ đề vậy.

Tám là Hộ Pháp vì đầy đủ Lục Độ vậy.

Này Tỳ Kheo Pháp Ngữ! Đại Bồ Tát nếu có thể đầy đủ những pháp như vậy thì có thể giáo hóa tất cả chúng sanh.

Tỳ Kheo Pháp Ngữ nghe pháp ấy rồi trong thế gian một vạn năm nhiếp tâm tư duy siêng tu tinh tiến vì để được những pháp ấy.

Do tinh tiến nên được vô tận khí Đà La Ni giỏi hiểu ngữ ngôn của tất cả chúng sanh rồi theo ngữ ngôn của mỗi loài mà thuyết pháp. Được Đà La Ni ấy rồi lại được vô tận biện tài.

Được các pháp như vậy rồi Tỳ Kheo Pháp Ngữ du hành khắp các nước các thành ấp tụ lạc giáo hóa vô lượng chúng sanh an trụ Tam Thừa Đạo, vì cha mẹ tôn tộc quyến thuộc thuyết pháp đều làm cho tất cả được tùy thuận pháp nhẫn.

Tỳ Kheo Pháp Ngữ lại đến chỗ đức Tự Tại Vương Phật đầu mặt đảnh lễ đi nhiễu ba vòng đứng qua một phía mà bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như trước kia Đức Phật đã dạy bảo tôi do đó đã chứng được Phật thần lực đã được Thánh trí huệ.

Bạch Đức Thế Tôn! Còn có tam muội gì mà Bồ Tát tu tập rồi được bất thối chuyển tăng trưởng thiện pháp chăng?

Đức Tự Tại Vương Phật nói: Này Tỳ Kheo, có tam muội tên là nhất thiết pháp tự tại, Bồ Tát tu tập rồi thì tâm chẳng thối chuyển cũng được tăng trưởng thiện pháp.

Tỳ Kheo Pháp Ngữ nghe tên tam muội nhất thiết pháp tự tại ấy liền bạch đức Tự Tại Vương Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát hành thế nào tu thế nào học thế nào để có thể được tam muội ấy?

Đức Phật nói: Này Tỳ Kheo! Có tám pháp tám trang nghiêm và tám phát tâm, Bồ Tát có đủ thì được tam muội ấy.

Những gì là tám pháp?

Đó là tịnh tâm, chí tâm, thí tâm, ly phiền não tâm, quán lục giới, tu nhẫn, siêng tinh tiến và tu chánh định thân tâm tịch tĩnh.

Những gì là tám trang nghiêm?

Đó là xả, giới, công đức, trí, xa ma tha, tỳ bát xá na, phát bồ đề tâm và trang nghiêm tất cả Phật Pháp.

Những gì là tám phát tâm?

Đó là phát tâm không có chúng sanh thọ mạng sĩ phu nhẫn đến cũng không có Chư Phật.

Phát tâm tất cả các pháp vô thường khổ vô ngã.

Phát tâm tất cả các pháp không vô tướng vô nguyện.

Phát Tâm pháp vị lai không có trụ xứ.

Phát tâm hiện tại các pháp không có trụ xứ.

Phát tâm tất cả các pháp không có nghiệp nhân quả báo.

Phát tâm tất cả các pháp không có tác giả không có thọ giả.

Phát tâm tất cả các pháp không có hệ thuộc.

Bồ Tát có đủ tám pháp tám trang nghiêm và tám phát tâm như vậy thì có thể được nhất thiết pháp tự tại tam muội.

Nghe rồi, Tỳ Kheo Pháp Ngữ tinh tiến tu tập chẳng lâu liền được nhất thiết pháp tự tại tam muội ấy. Được tam muội rồi Tỳ Kheo ấy phóng quang minh chiếu khắp đại thiên Thế Giới.

Tỳ Kheo Pháp Ngữ lại đến chỗ Đức Phật đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng thăng lên hư không cao một cây Đa La ngồi kiết già mãn một ngàn năm chẳng động chẳng lay dùng pháp hỉ làm món ăn, được trí lạc thuyết vô ngại làm cho ba vạn sáu ngàn ức chúng sanh được tâm bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh an trụ Tam Thừa.

Quá một ngàn năm, Tỳ Kheo Pháp Ngữ rời chỗ ngồi bạch đức Tự Tại Vương rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai do siêng năng tinh tiến mà được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác chớ chẳng phải là do giải đãi.

Đức Tự Tại Vương Phật bảo Tỳ Kheo Pháp Ngữ rằng: Này thiện nam tử! Ngươi đã ở trong vô biên vô lượng đời thành tựu vô lượng vô biên công đức nên mau được thần thông như vậy.

Này thiện nam tử! Thuở trước ông đã ở chỗ bảy vạn sáu ngàn ức Chư Phật trồng các căn lành tịnh tu phạm hạnh, do thiện căn quá khứ ấy mà được thiện quả hôm nay vậy.

Đức Phật bảo Tôn Giả Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề! Ông có biết thuở xa xưa nơi Đức Phật Tự Tại Vương ở Tịnh Thế Giới trong tịnh kiếp, Tỳ Kheo Pháp Ngữ được nhất thiết pháp tự tại tam muội là người nào chăng?

Chính là Đại Bồ Tát Bất Thuấn đây vậy. Đại Bồ Tát này đã được vô lượng vô biên công đức.

Lúc Đức Thế Tôn vì Tôn Giả Tu Bồ Đề nói nhân duyên thuở trước của Đại Bồ Tát Bất Thuấn, có ba vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô Thượng bồ đề.

Trên Hư Không, Chư Thiên Long Bát Bộ mưa những hoa hương để cúng dường Bất Thuấn Đại Bồ Tát mà đồng thanh nói rằng: Chúng tôi hôm nay thấy Đại Bồ Tát Bất Thuấn này được lợi ích rất lớn.

Bấy giờ Tôn Giả Tu Bồ Đề nói với Bất Thuấn Đại Bồ Tát: Đại Sĩ từ lâu đã tu phạm hạnh thanh tịnh.

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề! Luận về phạm hạnh chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại. Nếu chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại tức là vô tác, nếu là vô tác thì gọi là hạnh. Hạnh như vậy gọi là vô sanh, gọi là vô tranh, không có ngôn thuyết và oai nghi.

Thưa Đại Đức! Vì chẳng phải nhãn hành nên gọi lả phạm hạnh, vì chẳng phải nhĩ tỹ thiệt thân và ý hành nên gọi là phạm hạnh.

Vì chẳng phải sắc hành nên gọi là phạm hạnh, vì chẳng phải thanh, hương, vị, xúc và pháp hành nên gọi là phạm hạnh. Cũng vì chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành và thức hành nên gọi là phạm hạnh.

Phạm hạnh ấy chẳng phải tướng, chẳng phải duyên, chẳng phải kiến, chẳng phải văn, chẳng phải tri, chẳng phải giác.

Thưa Đại Đức! Các pháp như vậy không có đi đến không có đứng dừng, không có kéo níu, không có số lượng, không có trên duới, đây gọi là phạm hạnh vậy.

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Thưa Đại Sĩ! Phạm hạnh ấy gọi là bát chánh đạo.

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức! Thế nào phạm hạnh gọi là bát chánh đạo?

Thưa Đại Đức! Nếu lấy chánh kiến làm phạm hạnh ấy, chẳng thấy các pháp gọi là chánh kiến, bình đẳng thấy các pháp gọi là chánh kiến, thấy chẳng thấy mới gọi là chánh kiến.

Nếu chẳng thấy thì thế nào được gọi là chánh kiến ư!

Nếu không có chánh kiến thì thế nào được gọi là phạm hạnh ư!

Không có tư duy gọi là chánh tư duy, luận về người có tư duy thì gọi là điên đảo.

Nếu điên đảo thì thế nào được nói là chánh tư duy ư!

Nếu không có chánh tư duy thì thế nào được gọi là phạm hạnh ư!

Tất cả âm thanh thảy đều bình đẳng.

Hoặc thiện hoặc ác một hoặc hai hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại hoặc tất cả chữ hoặc tất cả tiếng đều gọi là như hưởng vang, nếu là hưởng vang ấy thì thế nào được nói là chánh ngữ ư!

Tất cả ấm thanh bình đẳng ấy, tất cả hành pháp đều vô thường khổ vô ngã là Niết Bàn tịch tĩnh, nếu có thể bình đẳng quán tất cả các pháp như tướng Niết Bàn và người diễn thuyết ấy cũng như vậy thì gọi là chánh ngữ.

Không có thân không có thân nghiệp, không có khẩu không có khẩu nghiệp, không có ý không có ý nghiệp, tại sao, vì không có nghiệp xứ vậy.

Nếu có nghiệp xứ thì là có ngã và ngã sở. Nếu không có ngã ngã sở thì không có nghiệp quả. Quán như vậy thì gọi là chánh nghiệp.

Nếu vì sống còn mà làm tà mạng, xa lìa tà mạng thì gọi là chánh mạng. Nếu quán tất cả không ngã ngã sở không có chúng sanh thọ mạng sĩ phu.

Như kia đã không có thì thế nào được gọi là chánh mạng ư!

Nơi nhãn thức sắc chẳng sanh nhiễm trước, nhãn thức tánh rỗng không, vì nhãn thức tánh không nên nhãn và sắc cũng rỗng không.

Nếu nhãn sắc và thức rỗng không đến ý pháp và thức cũng rỗng không như vậy. Quán như đây thì gọi là chánh mạng.

Không có điên đảo đoạn dứt các tinh tiến gọi là chánh tinh tiến: Không có pháp tinh tiến, không có người tinh tiến, không có đầy đủ thành tựu tinh tiến, không có tinh tiến làm lợi ích ấy. Nếu có thể quán sát các pháp như vậy thì gọi là chánh tinh tiến.

Nếu có thể khắp niệm tất cả pháp bình đẳng như hư không, tất cả các pháp ấm nhập giới cũng như vậy. Nếu có thể quán các pháp như vậy thì gọi là chánh niệm.

Quán tất cả pháp đều bình đẳng không có ngã không có ngã sở, nếu có thể bình đẳng quán tất cả các pháp như vậy thì gọi là chánh định.

Thưa Đại Đức! Nếu có thể quán tất cả pháp tánh bình đẳng như vậy thì gọi là bát chánh đạo, gọi là phạm hạnh.

Chẳng phải lấy số mà gọi lả bát chánh đạo, chẳng phải bát chánh đạo mà gọi là phạm hạnh, chẳng phải vì đạo thế tục mà gọi là phạm hạnh, chẳng phải vì chấp tâm mà gọi là phạm hạnh, chẳng phải vì hai tướng mà gọi là phạm hạnh, nếu thấy các pháp không có trụ xứ mới gọi là phạm hạnh vậy.

Lúc Bất Thuấn Đại Bồ Tát vì đại chúng mà nói phạm hạnh như vậy, có năm trăm Tỳ Kheo lìa các phiền não được quả A La Hán.

Tôn Giả Tu Bồ Đề nói: Lành thay, lành thay! Đại Sĩ rất giỏi nói pháp ấy như bậc A La Hán lìa các phiền não nói không có khác.

Bất Thuấn Đại Bồ Tát nói: Thưa Đại Đức Tu Bồ Đề! Nay tôi cũng là bậc lìa phiền não, cũng là A La Hán, tôi cũng xa lìa các pháp Thanh Văn, Duyên Giác phiền não. Tôi như pháp trụ nên gọi là A La Hán.

Tôn Giả Tu Bồ Đề bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Bất Thuấn Đại Bồ Tát này lại thuyết vô ngại chẳng thể nghĩ bàn biện tài lợi ích tùy chỗ hỏi mà đáp.

Đức Phật phán dạy: Này Tu Bồ Đề! Bất Thuấn Bồ Tát được nhất thiết pháp tự tại tam muội, vì vậy nên có thể tùy chỗ hỏi mà đáp. Nếu Bồ Tát được tam muội ấy thì tất cả thế gian Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn không ai có thể chướng ngại được lạc thuyết vô ngại của Bồ Tát ấy.

Thiên Đế Thích bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người trong vô lượng đời đầy đủ công đức mới thấy được Bất Thuấn Đại Bồ Tát và nghe thuyết pháp.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì Kinh này đọc tụng thơ tả giải nói cho người, và người nghe pháp đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên biết các hạng người này sẽ như Bất Thuấn Đại Bồ Tát làm sư tử hống.

Bạch Đức Thế Tôn! Đế Thích tôi sẽ ủng hộ các người ấy.

Đức Phật phán dạy: Lành thay, lành thay, Kiều Thi Ca! Nay ông có thể chí tâm hộ trì chánh pháp như vậy.

Phạm Vương bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi sẽ thích tu xả định tam muội rời bỏ vui thiền định để đến hộ trì Phật Pháp và người thuyết pháp cho họ lìa bệnh khổ. Tùy Quốc Độ nào mà có chỗ thuyết pháp tôi sẽ thọ sanh nơi ấy chí tâm nghe pháp và thọ trì.

Nếu có Quốc Độ nào nghe thọ Kinh này và cúng dường Tam Bảo, tôi cũng trừ diệt ác tướng nơi ấy, cho Quốc Độ ấy thanh tịnh an vui chánh pháp được lưu truyền giáo hóa rộng rãi.

Đức Phật phán khen: Lành thay, lành thay, Phạm Vương chân thiệt hộ pháp. Nếu có người có thể hộ pháp như vậy phải biết người ấy trọn chẳng xa lìa Tam Bảo.

Tứ Thiên Vương bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi cũng có thể thủ hộ người thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết pháp thậm thâm này.

Đức Phật phán dạy: Lành thay, lành thay, này các thiện nam tử! Nếu người biết rõ chánh pháp thì người ấy mới có thể ủng hộ pháp này. Các ông ở chỗ Phật được nghe pháp rồi liền được pháp nhãn dứt các ác đạo, nếu lại chí tâm hộ trì chánh pháp thì chẳng lâu sẽ dứt tất cả các hữu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan! Ông nên thọ trì Kinh Điển như vậy vì bốn hộ chúng mà nói rộng nghĩa ấy.

Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi có thể thọ trì Kinh Điển như vậy đúng nhu lời Phật dạy rộng vì tứ chúng mà tuyên nói phân biệt giải thích.

Đức Phật nói Kinh này rồi, Trời Rồng Bát Bộ tất cả đại chúng nghe lời Đức Phật dạy đều rất vui mừng đồng thanh khen rằng: Lành thay, lành thay!

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần