Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Chín - Pháp Hội Hư Không Mục - Phần Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC
PHẦN SÁU
Minh Tịnh Thiên Tử bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Người Thanh Văn hành pháp Thanh Văn thừa, người Bích Chi Phật hành pháp Bích Chi Phật thừa, hai hạng người ấy tu tâm bi thế nào, tư duy pháp nào, lìa phiền não nào?
Đức Phật nói: Này Thiên Tử! Nếu có thiện nam hay thiện nữ hành Thanh Văn thừa hay Bích Chi Phật thừa chẳng quán những tướng vui của chúng sanh, chẳng quán các tướng oán thân cha mẹ, thương xót chúng sanh tu tập tâm bi, nhẫn đến thập phương chúng sanh cũng như vậy.
Họ tư duy thê này: Nếu ta chẳng thể ở nơi ác chúng sanh mà tu tập tâm bi, thì nên quán tám tướng khổ của chúng sanh ấy, đó là sanh khổ, lão khổ, tử khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tẳng hội ngộ khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ.
Tại sao ta ở nơi kẻ khổ não như vậy mà chẳng sanh tâm bi!
Họ lại tư duy rằng: Chúng sanh ấy còn có ba thứ đại khổ cũng còn chưa được giải thoát khổ ba ác đạo, tại sao ta lại chẳng thương xót!
Thế nào gọi là quán sanh khổ?
Từ nghiệp nhân duyên cha mẹ hoà hiệp thời kỳ ca la la ban sơ thọ ý thức, thân ấy như hột đình lịch, chưa có hơi thở vào ra, chưa hay biết khổ và vui chẳng khổ chẳng vui, đã lìa sắc tướng trước mà chưa đủ các tướng sắc sau.
Không có sức lực, không có mong muốn, không có tinh tiến, cũng không có kiêu mạn là thượng sắc thượng tánh thượng tự tại, không có tướng ngũ dục, các căn chẳng đủ, chúng sanh như vậy tại sao ta lại chẳng thương xót!
Chúng sanh như vậy, quá khứ ái và thủ gọi là vô minh, quá khứ nghiệp hữu gọi là hành, tâm sơ nhập thai gọi là thức, trong Ca La La sắc và bốn ấm ban sơ gọi là danh sắc, lúc này chưa đủ mười hai hữu chi, do vì nhân duyên sanh nên có thể nói là có mười hai chi nhân duyên, chúng sanh như vậy có người trí nào mà chẳng xót thương!
Ca La La trụ sáu lần bảy ngày thì chuyển thành án phù đà hình sắc như trái táo nhỏ. Án phù đà trụ bảy ngày chuyển thành già na hình sắc như hột hồ đào.
Già na trụ bảy ngày chuyển thành bế thi hình sắc như trái tần bà la. Lúc này trên thân có năm u bóng nổi lên, đó là tượng đầu hai tay và hai chân.
Đến mười ba lần bảy ngày mới có tướng bộ tiêu hoá. Hai mươi lần bảy ngày thì nam căn và nữ căn sai biệt. Từ hai mươi mốt lần bảy ngày mới bắt đầu sanh xương lóng. Trong ba sáu lần bảy ngày thì thân thể đầy đủ thịt máu lông và các căn. Ba mươi tám lần bảy ngày thì tất cả chi phần thân thể thành tựu trọn vẹn, bốn ngày bốn đêm ở chỗ hôi dơ trong bụng bà mẹ.
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng xót thương!
Bấy giờ hành giả lại tư duy nhớ lại sự thọ sanh của mình ngày trước, rất buồn rầu lo sợ mà tự suy nghĩ rằng ta phải tu pháp lành nguyện sau này chớ còn thọ sanh vào chỗ như vậy nữa, ta phải tinh tiến tu tập bất phóng dật xa lìa hẳn thọ sanh.
Kế đến tư duy lúc mới xuất thai cả thân chịu khổ bức bách gió suông và thân cũng rất khổ vừa rơi xuống đất nước rửa chà lau lại càng khổ hơn, khác gì sự khổ ở địa ngục, lúc này lại quên hết sự việc đời trước. Sanh xong lại còn có các sự khổ lớn những là già bệnh chết cứ theo mãi chẳng buông bỏ.
Còn có phong bệnh, các bệnh bạch thuỷ hoàng thuỷ hoà hiệp. Tứ đại gây bệnh đều riêng có một trăm lẻ một bệnh cộng thành bốn trăm lẻ bốn bệnh cội gốc biết bao sự đau đớn khổ sở, nên gọi sanh là đại khổ vậy.
Đã chịu sanh khổ rồi, già nua theo dõi tiếp theo làm khổ, những là tóc bạc mặt nhăn, mất trí hổ thẹn, lông tóc thưa thớt, vì các hành đã lâu cũ nên các căn suy yếu dễ hư dễ hoại rã mục mỏng manh, chỉ còn tham hai vị là mặn và chua. Già nua hay làm hư thân căn mất sự an vui thêm nhiều khổ não, đây là sông đại khổ, nó hay phá sắc trẻ trung mạnh khoẻ ba đời của chúng sanh, nó hay quên như trẻ nít, cuồng loạn như bị quỷ nhập.
Chúng sanh có đủ sự xấu khổ như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Kế lại bị tử vong nó xâm bức, mất trí huệ thọ mạng. Những sở hữu phải lìa bỏ, thân hoại mạng hoại, tứ đại lìa tan. Sự tử vong là oán thù của Tam Thế thọ mạng của chúng sanh, tất cả chúng sanh không ai thoát khỏi.
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Kế tư duy, các chúng sanh ấy lại còn phải những người những vật không ưa thích cứ đến gần kề, đó là lạnh, nóng, đói, khát, ác nhân, ác thú v.v…
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Còn có những người và vật yêu thích lại phải xa lìa, đó là trẻ mạnh, của cải, kho tàng, thọ mạng, cha mẹ vợ con thân thích quyến thuộc, sáu trần đẹp vui. Sự biệt ly ấy cũng rất buồn khổ.
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại không xót thương!
Hoặc có chúng sanh trong ba đời cầu sáu trần phẩm thượng mà chẳng được, nên phải chịu các sự khổ não.
Chúng sanh như vậy, tại sao ta lại chẳng thương xót!
Nếu ta lại ở nơi các loại chúng sanh ấy mà chẳng thương thì ta sẽ thế nào được vô thượng bồ đề. Các chúng sanh chịu gánh nặng ngũ ấm, ta cũng vậy, nếu ta không tu tâm đại bi thì làm sao bỏ được gánh nặng ấy. Tất cả Thánh Nhân đa xa lìa được gánh nặng ngũ ấm.
Nếu chẳng tu hành ba thứ tịnh giới, chẳng tư duy lành tốt, tâm thường phóng dật chẳng hành chánh đạo chẳng được giải thoát, người như đây phải chịu cả trăm thứ khổ.
Chúng sanh đã chịu cả trăm thứ khổ như vậy, tại sao ta không tu tâm đại bi!
Này Thiên Tử! Nếu có chúng sanh trong một ngày đêm có thể quán như vậy, người này được tâm dường như hư không. Người này ở nơi tất cả chúng sanh có thể tu tập đại bi. Người này có thể được thân tâm tịch tĩnh. Người này chẳng xa lìa chánh chân pháp giới và chân pháp tánh. Tu tập như vậy có thể được chúng sanh duyên bi của thừa Thanh Văn và Duyên Giác.
Nếu có Bồ Tát lúc ban sơ tu tập đạo phẩm, tư duy như vậy: Giả sử khiến ta có hằng hà sa số thân lớn như núi Tu Di, sẽ đem những thân ấy vì một người mà phải chịu khổ nhiều trong vô lượng đời để cho người ấy được an lạc, ta trọn chẳng hối tiếc cũng chẳng thối thất tâm Bồ Đề.
Bồ Tát này lại tư duy, giả sử tất cả chúng sanh đều cầm chuỳ sắt lớn như núi Tu Di đến đập thân thể ta trong vô lượng năm, ta sẽ nhịn chịu chẳng sanh ác tâm đối với họ dầu chỉ là một niệm.
Bồ Tát này lại tư duy, người ấy đã chịu phải trăm thứ khổ não, tất cả chúng sanh cũng phải khổ như vậy mà họ chẳng biết niệm vô thượng bồ đề, nay ta học tập vô thượng bồ đề sao ta chẳng chịu được những đao kiếm lửa đá làm hại như vậy!
Nếu ta ở nơi tất cả chúng sanh mà sanh ác tâm, chắc sẽ bị sự quở trách của Chư Phật, Chư Hiền Thánh. Các Ngài sẽ quở ta rằng người muốn được vô thượng bồ đề sao với những sự như vậy mà chẳng nhẫn nhục.
Đại Bồ Tát Tu Tịnh ý liền được nhẫn nhục. Nhẫn nhục là anh lạc trang nghiêm, là tinh tiến đạo tánh, là Pháp Khí, là của báu. Bồ Tát tu nhẫn như vậy thì có thể thanh tịnh thân tâm, hay tịnh trang nghiêm, hay kiên cố trang nghiêm, được đại trí huệ chẳng đồng chung với hàng Thanh Văn, hàng Bích Chi Phật. Là thù thắng nhất trong tất cả chúng sanh.
Tất cả tứ ma chẳng được tiện lợi, tà ngoại chẳng lay động được, hay phá giảm phiền não, tất cả oán thù chẳng hại được, ngôn từ nói năng chẳng cùng tận, trí rất sâu rất rộng dường như đại hải, tinh tiến bền vững như núi Tu Di, bình đẳng với chúng sanh như nước biển nhất vị.
Hay làm lợi ích lớn dường như Đại Địa, rửa sạch những dơ bẩn dường như nước trong, hay làm ánh sáng dường như mặt nhật, ở giữa chúng vô ngại như gió mạnh, thế pháp không ô nhiễm như hoa sen, nhìn xuống chúng sanh như Kim Sí Điểu, chúng sanh thích thấy như mây ngày mùa hạ.
Chúng sanh vui nhận như mưa mùa hạ, thấy mừng không mong gì khác như gặp lương y, phá hết nghèo cùng như châu như ý, ban cho chúng sanh thiền định như Phạm Thiên, sanh tử vô ngại như hư không, hiển thị bình bất bình như đèn sáng, Nhân Thiên cung kính như Đế Thích.
Nếu có Bồ Tát khởi lòng sân hận thì tất cả oán tặc đều được tiện lợi, hư mất tất cả thiện căn của báu, tất cả ma chúng nắm được tội lỗi, bị các phiền não ô nhiễm, vào chỗ rất tối tăm, mất tất cả thiện căn, bị tất cả Thánh Nhân quở trách. Nếu có Bồ Tát khởi tâm sân hận đến chừng một niệm thì là hư mất tất cả pháp lành.
Phải tư duy như vậy: Giả sử ta đều chịu tất cả vô lượng ức số chúng sanh đánh mắng huỷ nhục ta chẳng nên khởi tâm ân hận dù chỉ một niệm, tại sao, vì các chúng sanh như vậy chẳng học từ bi, nếu không có các chúng sanh ấy giận đánh thì ta làm sao tu tập tâm từ bi, vì lẽ như vậy nên lúc chúng sanh giận đánh ta nên vui mừng, tại sao, vì chính đó là nhân duyên bi của ta vậy.
Nếu có thiện nam, thiện nữ có thể quán như vậy liền được chúng sanh duyên bi chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn, hàng Duyên Giác, cũng có thể mau được vô thượng bồ đề.
Này Thiên Tử! Còn có người quán chúng sanh ba ác đạo khổ rồi tu tập tâm bi. Còn có người quán sát các chúng sanh bị khổ trong tam giới mà tu tập tâm bi. Còn có người quán sát ngũ ấm chúng sanh mà tu tập tâm bi, quán sát các nhập các giới cũng như vậy.
Do các nghĩa ấy nên Đại Bồ Tát muốn được vô thượng bồ đề phải tu tập từ bi. Tại sao, vì tâm từ bi là chủng tử của tất cả thiện pháp.
Nếu có chúng sanh được thân Trời Sắc Giới cũng là do nhân duyên từ bi. Lúc nói pháp ấy Minh Tinh Thiên Tử được vô sanh nhẫn, nhẫn này chẳng cùng đồng với hàng Thanh Văn. Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh được như pháp nhẫn. Năm vạn năm ngàn na do tha chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.
Mười vạn tám ngàn chúng sanh được tâm bất thối. Hai vạn chúng sanh thành tựu từ bi. Năm ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Năm trăm Tỳ Kheo Ni được vô lậu. Mười vạn ức chúng sanh phá đại tà kiến được tâm chánh kiến.
Đức Thế Tôn bảo Vô Thắng Ý Bồ Tát rằng: Này Vô Thắng Ý! Thưở quá khứ có Phật hiệu Phát Công Đức Ý Như Lai cũng nói đại từ đại bi như vậy.
Vô Thắng Ý Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nói rằng như ấy, thế nào gọi là như?
Đức Phật nói: Này Vô Thắng Ý! Xa lìa thân tướng gọi đó là như.
Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Nói rằng thân ấy, tức là thiệt tánh, tức là tịch tĩnh, tức là pháp giới, tức là vô lậu, tức là vô tận.
Đức Phật nói: Này Vô Thắng Ý! Như thân ấy, tức là thân tất cả chúng sanh. Như tức là biên tế của quá khứ của vị lai, tức là tịch tĩnh.
Vô Thắng Ý Bồ Tát nói: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tất cả Chư Phật, như tức là thân.
Đức Phật nói: Lành thay lành thay!
Này Vô Thắng Ý! Pháp giới như vậy không có tăng giảm, tam thế bình đẳng, chẳng sanh chẳng xuất chẳng diệt dường như hư không. Như thân cũng như vậy. Lúc nói pháp ấy, ba vạn chúng sanh được như pháp nhẫn.
Đức Thế Tôn bảo Minh Tinh Bồ Tát rằng: Này Minh Tinh! Thiện nam thiện nữ tu tập tâm hỉ như thế nào?
Này Minh Tinh! Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ bi chẳng nhớ đến chúng sanh có những tướng vui, nhẫn đến chẳng quán sát tam thú tam giới có những sự khổ mà cũng quán sát ngũ ấm xuất diệt, quán như vậy rồi sanh tâm hỉ, chỉ thích quán pháp, quán rồi sanh tâm hỉ. Tâm hỉ như vậy nguyện đến cùng chúng sanh, đây gọi là hỉ.
Này Minh Tinh! Thiện Nam Thiện Nữ tu xã thế nào?
Nếu có Bồ Tát chẳng tu từ tâm nhẫn đến hỉ tâm mà tu xả niệm xả cha mẹ nhẫn đến Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Chư Phật. Lúc tu xả ấy xa lìa tất cả tâm ái tâm sân. Người này tu tập không vô tướng vô nguyện. Đã tu tập rồi chẳng lâu quyết định sẽ được nhập Niết Bàn.
Nếu người tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, người ấy được Thập Phương Chư Phật Bồ Tát tán thán, tất cả Trời, Rồng, Dạ Xoa, Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều cúng dường.
Quốc Độ nào có hàng tứ chúng tu tập bốn tâm vô lượng như vậy, cõi nước ấy đã được xa lìa tất cả ác tướng suy họa. Chúng sanh xứ ấy xa lìa ác pháp Thích tu thiện pháp.
Này Minh Tinh! Tứ Vô Lượng Tâm có đủ vô lượng phước đức như vậy.
Vô Thắng Ý Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Hàng tứ chúng Duyên Giác thừa tu tập từ bi hỉ xả như thế nào?
Đức Phật nói này Vô Thắng Ý! Trong hàng tứ Chúng Duyên Giác thừa có người tu tập từ bi hỉ xả. Người này quán sát chúng sanh an vui, hiểu chúng sanh an vui mà niệm pháp duyên từ trọn chẳng ức niệm chúng sanh duyên từ.
Như trong tâm mình có sự thích ưa cũng nguyện chúng sanh đồng chung được đó. Người này quán pháp bình đẳng, quán tâm bình đẳng, quán như bình đẳng. Quán như vậy rồi, người này trọn chẳng sanh tâm ác dầu chỉ nơi một chúng sanh.
Giả sử có nhân duyên sanh tâm ác, thì phải suy nghĩ như vậy: Nay nếu ta nơi kẻ ấy mà sanh ác tâm thì thế nào sẽ được vô thượng bồ đề, Đại Bồ Tát thành tựu vô lượng thuần thiện công đức, nếu ở nơi một người sanh tâm sân ác còn chẳng được vô thượng bồ đề, huống là ta chưa thành các thiện công đức, do cớ ấy nên tu chúng sanh duyên từ và pháp duyên từ, bi hỉ xả cũng như vậy.
Này Vô Thắng Ý! Nếu có người muốn được Duyên Giác thừa phải tu tập từ bi hỉ xả như vậy. Lúc nói pháp ấy, trong đại hội có sáu vạn ức chúng sanh trụ bậc Sơ Địa, hoặc Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa, Ngũ Địa, hoặc có chúng sanh được vô sanh nhẫn, hoặc có chúng sanh được Bích Chi Phật đạo, được Thanh Văn Đạo. Có vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề.
Bấy giờ trong đại chúng có một Đồng Tử tên là Hư Không Thanh bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm đạo vô thượng bồ đề, tu tất cả trí mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả pháp mục phương tiện vô duyên phạm hạnh, tất cả ấm nhập giới phương tiện, giải thoát phương tiện, tam muội phương tiện, Đà La Ni phương tiện, đắc nhẫn phương tiện, chư địa phương tiện?
Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát tu tất cả trí mục môn, đồng hư không huệ qua đến bờ kia, vô duyên phạm hạnh vượt qua bốn dòng dứt bốn ma hệ phược?
Đức Phật nói: Lành thay lành thay! Này Hư Không Thanh! Nay ông có thể vào biển tứ vô lượng, muốn độ chúng sanh qua sông sanh tử, nên ông phát ra lời hỏi như vậy. Ông lại còn muốn chẳng dứt biển Phật đại trí.
Này Hư Không Thanh! Thập phương Quốc Độ nếu có Bồ Tát cùng ông hành tam muội trí huệ, lúc Phật thuyết pháp, các hạng ấy đều làm minh chứng.
Nếu không có hạng Bồ Tát như vậy làm minh chứng thì ta chẳng tuyên nói vô duyên pháp hạnh. Tại sao, vì nếu ta tuyên nói pháp ấy, trong đây có nhiều người sanh lòng nghi. Nếu có người chưa được vô duyên phạm hạnh cũng sanh lòng nghi. Vì lẽ như vậy nên chẳng nên tuyên nói.
Đức Thế Tôn liền nhập tam muội. tam muội ấy tên là hư không tràng. Nhập rồi diện môn của Phật phóng quang minh lớn đủ các màu sắc chiếu khắp đến Thập Phương Thế Giới Chư Phật làm mờ tất cả ánh sáng nhật nguyệt.
Trong quang minh ấy phát ra tiếng nói rằng: Thế Giới Ta Bà hiện có Phật Thích Ca Mâu Ni vì các chúng sanh mà tuyên nói phạm hạnh phá các phiền não, tuyên nói Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa vô duyên phạm hạnh, có vô lượng chúng sanh vô lượng Bồ Tát thứ đệ ngồi nghe học chánh pháp. Cũng tuyên nói hạnh thanh tịnh Bồ Đề.
Vì muốn lợi ích vô lượng chúng sanh nên làm hội đại tập nói các thứ hạnh. Có vô lượng chúng sanh được Nhất Sanh Bổ Xứ, hoặc hậu sanh bổ xứ. Thập Phương chúng sanh nghe lời nói trong quang minh phát ra như vậy, tất cả đều tập hội Ta Bà Thế Giới.
Hoặc có Bồ Tát hiện thân chân kim mưa cát chân kim, hoặc có Bồ Tát hiện thân bạch ngân mưa cát bạch ngân, hoặc có Bồ Tát hiện thân lưu ly mưa cát lưu ly.
Hoặc có Bồ Tát hiện thân pha lê bảo mưa cát pha lê, hoặc có Bồ Tát hiện thân Trầm Thuỷ mưa cát trầm thuỷ, hoặc có Bồ Tát hiện thân Chiên Đàn mưa cát chiên đàn, hoặc có Bồ Tát hiện thân đa ma la bạt mưa cát đa ma la bạt để cúng dường Đức Phật. Cúng dường xong đều đầu mặt lễ kính rồi ngồi một phía.
Đức Phật bảo Hư Không Thanh Đồng Tử rằng: Này Hư Không Thanh! Ngày nay mười phương Chư Đại Bồ Tát, trong ấy hoặc có vị được pháp nhẫn, có vị được vô sanh nhẫn, có vị được nhất sanh, có vị được hậu sanh đều vì ta mà chứng minh. Chư Bồ Tát ấy tu tập tâm từ bi hỉ xả tỏ rõ thông đạt tánh các pháp, cũng hay xa lìa thân tướng nghiệp tướng.
Tâm Chư Bồ Tát ấy chẳng tham trước hữu vi vô vi, cũng chẳng tham trước nhãn nhĩ đến ý, chẳng tham trước sắc thanh đến pháp.
Đều chí tâm tu tập vô duyên phạm hạnh, không có giác quán, chẳng sanh kiêu mạn, không có chỗ tham trước, biết chân thiệt tánh, quán tất cả pháp đều bình đẳng đó là Tam Thế, Tam Giới, Tam Tịnh Giới, cũng được tăng trưởng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả.
Tất cả đều xa lìa ấm giới nhập, xa lìa tất cả tự tụ danh tụ cú tụ các pháp hữu vi. Bồ Tát ấy lúc quán như vậy liền được đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, tu tập đồng hư không tam muội phạm hạnh Sáu Ba La Mật, được Chư Phật hộ niệm, có thiện phương tiện trụ đệ tam nhẫn quá Đạo Thanh Văn, Đạo Bích Chi Phật, xa lìa tất cả nhãn sắc nhân duyên, nhĩ thanh nhân duyên đến ý pháp nhân duyên.
Quán Pháp Giới như tuỳ thuận chẳng điên đảo, được năng lực đại từ đại bi đại hỉ đại xả, trong tất cả pháp được đại tự tại, mà ở nơi sanh tử chẳng sanh tâm nhàm hối, có đại lực thế điều phục chúng sanh, ở trong tam thừa được trí phương tiện, hay mưa pháp vũ, được vô ngại trí, hiểu biết tất cả ngữ ngôn của các chúng sanh. Đây gọi là Thánh Mục Đà La Ni đủ vô ngại trí tu tập phạm hạnh.
Này Hư Không Thanh! Nếu có Bồ Tát tu phạm hạnh này, thì Bồ Tát ấy thường được thấy Phật, hay đủ Phật Pháp thanh tịnh Phật Độ, Bồ Tát tánh tịnh, chúng tịnh, hành tịnh, trí tịnh, ý tịnh, cúng dường cũng thanh tịnh, hay đủ Thập Địa thứ đệ sẽ ngồi pháp toà Như Lai.
Như vậy gọi là thanh tịnh pháp hành, đây gọi là Như Lai, là Thế Tôn, là quá bốn dòng, là Bồ Đề đạo. Hay được vô thượng bồ đề chuyển đại pháp luân.
Thế nào gọi là nhất thiết trí?
Nếu trí có thể thấy tất cả pháp bình đẳng, chúng sanh bình đẳng, tam thế bình đẳng, chẳng điên đảo bình đẳng. Bình đẳng tất cả pháp như vậy thấy hư không mục thấy pháp.
Hư không mục thấy vô hành.
Hư không mục thấy tánh.
Hư không mục thấy hư không.
Hư không mục thấy như nội không.
Hư không mục thấy như ngoại không.
Hư không mục thấy như nội ngoại không.
Hư không mục thấy như đại không.
Hư không mục thấy như đệ nhất nghĩa không.
Hư không mục thấy như hữu vi không.
Hư không mục thấy như vô vi không.
Hư không mục thấy như tất cánh không.
Hư không mục thấy như vô thỉ không.
Hư không mục thấy như tánh không.
Hư không mục thấy như tán không.
Hư không mục thấy như tự tánh không.
Hư không mục thấy như nhất thiết pháp không.
Hư không mục thấy như vô sở giác không.
Hư không mục thấy như vô pháp không.
Hư không mục thấy như hữu pháp không.
Hư không mục thấy như vô pháp hữu pháp không.
Hư không mục thấy như vô tánh không.
Hư không mục thấy như thiệt tánh không.
Hư không mục thấy như vô tướng vô nguyện.
Hư không mục thấy như nhất thiết pháp vô biên vô xứ.
Hư không mục thấy như đại từ đại bi.
Hư không mục thấy nhất thiết trí thấy không.
Hư không mục thấy nhất thiết trí.
Thấy như vậy rồi chuyển chánh pháp luân. Đây gọi là bất cộng chúng sanh pháp giới, đây gọi là nhất thiết trí, là Phật cảnh giới.
Lúc nói vô duyên phạm hạnh ấy, có chín vạn hai ngàn chúng sanh thành tựu pháp ấy. Có hằng hà sa số chúng sanh được như pháp nhẫn, hằng hà sa số chúng sanh xa trần lìa cấu được pháp nhãn tịnh. Có một ngàn Tỳ Kheo được quả A La Hán. Vô lượng Nhân Thiên phát tâm vô thượng bồ đề.
Bấy giờ, Chư Thiên Cõi Dục, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc đều dâng diệu hương hoa phan lọng kỹ nhạc cúng dường Phật.
Đồng bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc trược Như Lai ở Diêm Phù Đề chuyển chánh pháp luân, hôm nay ở trong Đại Bảo Phường Đình này Như Lai lại chuyển đại pháp luân, đó là vì bồ đề hành vậy.
Tất cả đại chúng lại nói như vậy: Cảnh giới Như Lai bất khả tư nghị. Tại sao, vì Đức Như Lai ở trong Đại Bảo Phường Đình này lúc chuyển pháp luân, trong vô lượng các Thế Giới mười phương có bao nhiêu Bồ Tát đều tập hội nơi đây để nghe pháp hành hư không mục như vậy.
Lúc ấy Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử, Kim Cương Đồng Tử, Kim Cương Sơn Đồng Tử, Vô Thắng Tràng Đồng Tử, Vô Thắng Ý Đồng Tử, Hư Không Thanh Đồng Tử, chúng Đồng Tử như vậy số đến chín vạn hai ngàn ức bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Duy nguyện Như Lai vì nguyện lực làm cho pháp hành hư không mục ấy được còn lâu ở Ta Bà Thế Giới này và ở mười phương Quốc Độ không diệt mất. Tại sao, vì trong pháp ấy nói ba phạm hạnh, nếu Bồ Tát tu ba phạm hạnh ấy thì được vô thượng bồ đề.
Đức Phật nói: Này các thiện nam tử! Nam phương Thế Giới có Phật hiệu Kim Cương Quang Minh Công Đức Như Lai, Tây Phương Thế Giới có Phật hiệu Trí Tràng Như Lai, Bắc phương Thế Giới có Phật hiệu Phát Quang Công Đức Như Lai, Đông phương Thế Giới có Phật hiệu Bảo Cái Quang Minh Công Đức Như Lai, bốn Phật Như Lai ấy trước đã có phát nguyện.
Do nguyện lực ấy, Kinh này về sau sẽ lưu bố mười phương khiến các Bồ Tát đều được tu hành ba phạm hạnh như vậy. Nay ta đem Chánh Pháp này phó chúc cho tứ đại Thiên Vương, Công Đức Thiên Nữ, tứ đại Long Vương, Thành Thiệt Ngữ Thiên, Tứ A Tu La Vương, Kiến Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Bát Tý Thiên, Địa Thần Nữ v.v…
Tại sao, hoặc có chúng sanh tánh nó tệ ác có đại thế lực, tạo nhiều nghiệp trọng tội chẳng học Kinh này, người ấy chết rồi thọ thân đại ác quỷ, thân ác long, các ác quỷ, ác long ấy muốn phá hoại Phật Pháp nên tuôn mưa ác gió ác bụi mù để ở nơi các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp gây bệnh nặng, lấy tay mò bụng lấy tim gan thổi khí độc vào trong món ăn uống, khiến người ăn vào mắc phải bệnh nặng, thầy thuốc bó tay chẳng trị lành được.
Các Tỳ Kheo tu hành ba nghiệp như vậy do đó đều chết cả, đây gọi là pháp diệt. Các ác quỷ ấy còn làm cho hàng đệ tử Phật những Sát Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, những đại thần trưởng giả đều sanh ác tâm, đã sanh ác tâm rồi họ tàn hại nhau.
Lúc bấy giờ, trong Diêm Phù Đề Quốc Độ thành thị thôn ấy đều hoang trống không người. Nhân dân đã không thì còn ai lưu bố Kinh Điển như vậy.
Vì cớ ấy nên nay ta không đêm Kinh này phó chúc Chư Bồ Tát và hàng tứ chúng, mà đem giao phó cho các Thiên Vương các Long Thần, Địa Thần. Chư Thiên, Chư Thần như vậy chí tâm hộ trì Chánh Pháp.
Nếu có hàng Vua quan tứ tánh tứ chúng thọ trì đọc tụng Kinh Điển như vậy, Chư Thiên, chư thần ấy sẽ chí tâm thủ hộ, khuyến hóa các Đàn Việt khiến dâng cúng các món vật dùng như món uống ăn, y phục, thuốc men, giường nệm, nhà cửa, đèn đuốc.
Các Đàn Việt ấy nếu có ác tướng ác bệnh, do oai lực Chư Thiên, chư thần đều khiến tiêu trừ cả. Vì vậy mà Chánh Pháp được tăng trưởng không diệt mất.
Chư Thiên, chư thần tất cả đồng bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Hoặc hiện tại nay, hoặc sau khi Phật diệt độ, chúng tôi cần phải bỏ lìa công việc mình mà thủ hộ chánh pháp Như Lai.
Nếu hàng tứ chúng đệ tử Phật có người hay thọ trì những Kinh Điển như vậy siêng tu tinh tiến, mặc dầu họ còn thọ chứa tám vật bất tịnh, chứa nuôi vợ con vàng bạc ruộng vườn nhà cửa người ở làm công, chúng tôi vì chánh pháp nên cũng sẽ thủ hộ họ, ngăn các ác quỷ chẳng cho đến gần nhiễu hại.
Xứ nào có Kinh Điển này, chúng tôi làm cho đất đai mầu mỡ, nhật nguyệt tinh tú chẳng trái vượt thường độ, oán thù binh cách đều tiêu phục. Nhân dân nam nữ lớn nhỏ đều ưa thích thọ trì đọc tụng các Kinh Điển này, họ trì giới thanh tịnh, siêng tu tinh tiến.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Vương Tương ưng - Kinh Bệ Bà Lăng Kỳ
Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ Phật - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Chín Mươi
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bất Ly Dục - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Hai - Phẩm Sinh Tử - Tập Tám