Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Ca Diếp Bồ Tát - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT  

PHẦN MỘT  

Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Đức Như Lai thương xót tất cả chúng sanh. Có thể điều phục kẻ chẳng điều phục, có thể thanh tịnh kẻ chẳng thanh tịnh, có thể quy y kẻ chẳng quy y, có thể giải thoát kẻ chưa giải thoát, được tám môn tự tại là bậc đại Y Sư, đại Dược Vương.

Bạch Thế Tôn! Thiện Tinh Tỳ Kheo là con trai của Đức Phật lúc chưa xuất gia, sau khi làm Tỳ Kheo, Thiện Tinh thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai Bộ Kinh, phá kiết sử Cõi Dục chứng được Tứ Thiền.

Tại sao Đức Như Lai nói Thiện Tinh là hạng Nhất xiển đề, là người hạ tiện người không thể trị được phải ở nơi địa ngục cả kiếp. Cớ gì Đức Như Lai chẳng trước diễn nói chánh pháp cho Thiện Tinh, để được làm Bồ Tát.

Nếu Đức Thế Tôn chẳng cứu được Thiện Tinh Tỳ Kheo, thời đâu được gọi là có đại từ bi, có đại phương tiện?

Phật nói: Này thiện nam tử! Ví như cha mẹ chỉ có ba người con trai: Người trai thứ nhất cung kính cha mẹ có lòng tin thuận, thông minh trí huệ có thể làm xong được sự nghiệp trong đời.

Người trai thứ hai không cung kính tin thuận cha mẹ, thông minh trí huệ có thể làm xong sự nghiệp trong đời.

Người trai thứ ba không cung kính tin thuận cha mẹ, ngu si vô trí.

Này thiện nam tử! ếu lúc cha mẹ muốn dạy bảo điều gì, thời nên dạy đứa con nào trước, thân ái đứa con nào trước, nên bảo đứa nào làm sự nghiệp trước?

Bạch Thế Tôn! Cha mẹ đó nên trước dạy bảo đứa con có lòng cung kính tin thuận thông minh trí huệ hiểu biết sự nghiệp trong đời, kế đến dạy bảo đứa thứ hai, rồi sau mới đến đứa con thứ ba. Hai đứa sau dầu không lòng cung kính tin thuận nhưng vì xót thương nên cũng lần lượt dạy bảo.

Này thiện nam tử! Đức Như Lai cũng như vậy. Đứa con thứ nhất dụ cho Bồ Tát, đứa giữa dụ cho hàng Thanh Văn, đứa thứ ba dụ cho hạng Nhất xiển đề.

Như trong Khế Kinh, những nghĩa lý vi tế ta đã trước giảng nói cho các vị Bồ Tát. Những nghĩa cạn cợt thời giảng nói cho hàng Thanh Văn. Những nghĩa thế gian thời giảng nói cho hạng Nhất xiển đề phạm tội ngũ nghịch, dầu trong đời hiện tại họ không được lợi ích, nhưng cũng làm chủng tử lành cho đời sau.

Này thiện nam tử! Ví như ba hạng ruộng: Hạng thứ nhất nước chảy lưu thông, không có ngói đá gai gốc, trồng một thâu được trăm.

Hạng thứ hai dầu không ngói đá gai gốc, nhưng đường nước không được lưu thông nên hoa mầu kém ruộng trên phân nửa.

Hạng thứ ba đường nước khó khăn lại nhiều ngói đá gai gốc cỏ mọc lan tràn trồng một chỉ thâu được một.

Này thiện nam tử! Nến mùa gieo trồng thời nông phu nên gieo trồng ruộng nào trước?

Bạch Thế Tôn! Nông phu kia nên gieo trồng ruộng thứ nhất trước, kế đến ruộng thứ hai, sau rốt đến ruộng thứ ba.

Này thiện nam tử! Ruộng thứ nhất dụ cho Bồ Tát, ruộng thứ hai dụ cho Thanh Văn, ruộng thứ ba dụ cho hạng Nhất xiển đề.

Này thiện nam tử! Ví như ba cái chậu: Cái thứ nhất nguyên vẹn, cái thứ hai rịn chảy, cái thứ ba bể.

Nếu muốn đựng sữa, lạc, nước, tô thời trước nên dùng chậu nào?

Bạch Thế Tôn! Nên trước dùng chậu lành, kế đến dùng chậu nứt, sau rốt mới đến chậu bể.

Này thiện nam tử! Chậu lành dụ cho Bồ Tát, chậu nứt dụ hàng Thanh Văn, chậu bể dụ hạng nhất xiển đề.

Này thiện nam tử! Như có ba người bệnh đồng đến y sĩ: Người thứ nhất dễ trị, người thứ hai khó trị, người thứ ba không thể trị.

Y Sĩ nên trước trị cho người nào?

Bạch Thế Tôn! Nên trị cho người dễ trước, kế đến người thứ hai, sau rốt đến người thứ ba, vì là hàng thân thuộc.

Này thiện nam tử! Người bệnh dễ trị dụ cho Bồ Tát, người bệnh khó trị dụ cho Thanh Văn, người bệnh không thể trị dụ cho hạng Nhất xiển đề. Dầu hạng sau rốt này đối với chánh pháp không được quả lành trong đời hiện tại, nhưng vì xót thương nên Đức Như Lai cũng gieo trồng chủng tử lành cho họ đời sau.

Này thiện nam tử! Ví như nhà Vua có ba hạng ngựa: Hạng thứ nhất điều thuận mạnh mẽ, hạng thứ hai không điều thuận nhưng mạnh mẽ, hạng thứ ba không điều thuận là già yếu.

Lúc muốn cỡi, nhà Vua nên cỡi hạng ngựa nào trước?

Bạch Thế Tôn! Nhà Vua nên trước cỡi hạng ngựa điều thuận mạnh mẽ, kế đến hạng thứ hai, sau cùng đến hạng thứ ba.

Này thiện nam tử! Hạng điều thuận mạnh mẽ dụ cho Bồ Tát, hạng thứ hai dụ cho Thanh Văn, hạng thứ ba dụ cho Nhất xiển đề. Dầu hạng sau rốt này không được lợi ích trong đời hiện tại, nhưng vì xót thương nên Đức Như Lai vun trồng chủng tử lành đời sau cho họ.

Này thiện nam tử! Như lúc bố thí lớn có ba hạng người đến xin: Hạng thứ nhất dòng sang thông minh giữ giới hiền lành, hạng thứ hai dòng trung lưu ngu tối nhưng cũng giữ giới hiền lành, hạng thứ ba, dòng hạ tiện ngu tối phá giới hung ác.

Này thiện nam tử! Thí chủ kia nên bố thí cho hạng nào trước?

Bạch Thế Tôn! Nên trước bố thí cho hạng thứ nhất, kế đến hạng thứ hai, sau rốt đến hạng thứ ba.

Này thiện nam tử! Hạng thứ nhất dụ cho Bồ Tát, hạng thứ hai dụ cho Thanh Văn, hạng thứ ba dụ cho Nhất xiển đề.

Này thiện nam tử! Như Đại Sư tử lúc giết Hương Tượng thời dùng hết sức lực, lúc giết thỏ cũng dùng hết sức lực chẳng khinh thường. Chư Phật cũng như vậy, lúc thuyết pháp cho chư vị Bồ Tát dụng công cũng như lúc thuyết pháp cho hạng Nhất xiển đề.

Này thiện nam tử! Trước kia lúc ta ở thành Vương Xá, Thiện Tinh Tỳ Kheo làm thị giả. Đầu hôm nói pháp cho Thiên Đế Thích. Theo phép của thị giả, phải đi nằm sau Thầy.

Lúc đó vì ta ngồi lâu nên Thiện Tinh sanh niệm ác bạch với ta rằng mau đi vào thiền thất quỉ Bạc Câu La đến kia kìa.

Ta bảo Thiện Tinh, ngươi là kẻ ngu si, ngươi chẳng biết rằng Đức Như Lai là bậc Vô sở úy ư!

Đế Thích hỏi ta rằng: Bạch Thế Tôn! Hạng người như vậymà cũng được vào trong Phật Pháp ư?

Ta nói với Thiên Đế: Hạng người ấy cũng đặng vào trong Phật Pháp, họ cũng có Phật Tánh sẽ chứng được vô thượng Bồ Đề.

Dầu ta vì Thiện Tinh mà thuyết pháp, nhưng Thiện Tinh vẫn không có lòng tin.

Này thiện nam tử! Lại có một lúc ta ở nước Ca Thi, thành Thi Bà Phú La, ta muốn vào thành khất thực. Vô lượng chúng sanh khao khát muốn thấy dấu chân của ta. Thiện Tinh Tỳ Kheo theo hầu phía sau chà bỏ dấu chân của ta, nhưng không chà mất được, lại làm cho chúng sanh có quan niệm chẳng lành.

Khi vào thành rồi, thấy trong nhà cất rượu có một Ni Kiền Tử ngồi xổm khum lưng ăn bã rượu.

Thiện Tinh bạch với ta rằng: Nếu trong đời có bậc A La Hán thời người đó là hơn tất cả, vì người đó tuyên bố rằng không nhân không quả.

Ta bảo Thiện Tinh: Ngươi là người ngu si.

Ngươi chẳng nghe rằng bậc A La Hán chẳng uống rượu, chẳng hại người, chẳng khi dối, chẳng trộm cướp, chẳng dâm dật ư! Ni Kiền Tử đó giết hại cha mẹ, ăn bã rượu sao ngươi nói là bậc A La Hán. Người đó sau khi chết quyết định đọa địa ngục A tỳ. Bậc A La Hán dứt hẳn ba đường ác, sao ngươi gọi người đó là A La Hán.

Thiện Tinh liền nói: Tánh của tứ đại còn có thể chuyển đổi, quyết không có lẽ người đó đọa địa ngục A tỳ.

Ta nói: Ngươi là người ngu si.

Ngươi chẳng thường nghe rằng Chư Phật luôn luôn nói lời thành thật ư?

Dầu ta khuyên dạy Thiện Tinh, nhưng Thiện Tinh tuyệt không có lòng tin.

Này thiện nam tử! Có một lúc kia ta cùng Thiện Tinh ở thành Vương Xá, trong thành có một Ni Kiền Tử tên là Khổ Đắc.

Người này thường tuyên bố rằng: Chúng sanh phiền não không nhân, không duyên, chúng sanh giải thoát cũng không nhân không duyên.

Thiện Tinh bạch với ta rằng: Nếu trong đời có bậc A La Hán thời ông Khổ Đắc là trên hết.

Ta nói ngươi là kẻ ngu si. Ni Kiền Tử Khổ Đắc thiệt chẳng phải A La Hán chẳng hiểu được đạo A La Hán.

Thiện Tinh nói rằng: Tại sao bậc A La Hán lại tật đố với A La Hán. Ta nói ngươi là người ngu si. Ta chẳng sanh tật đố với A La Hán, chính là người tự sanh quan niệm ác tà.

Nếu người nói Khổ Đắc là A La Hán, thời ông nên nghe đây, bảy ngày sau Khổ Đắc sẽ bị trúng thực đau bụng mà chết, chết rồi sẽ sanh trong loài quỉ ăn đồ ói mửa khạc nhổ của người. Bạn đồng học sẽ mang thây của Khổ Đắc bỏ trong rừng Tha Ma.

Thiện Tinh liền đem lời này thuật lại với Khổ Đắc rồi bảo Khổ Đắc rằng: Trưởng Lão nên khéo tư duy, tu tập phương tiện, làm cho lời ông Cù Đàm thành vọng ngữ. 

Sau khi nghe Thiện Tinh nói, Khổ Đắc liền đoạn thực, từ một ngày đến ngày thứ sáu, nhịn đói đủ bảy ngày, Khổ Đắc bèn ăn đường đen, rồi uống nước lã, đau bụng mà chết. Bạn của Khổ Đắc liền mang thi hài bỏ trong rừng Tha Ma, Khổ Đắc sanh làm quỉ đói ăn đồ ói mửa, quanh quẩn ở bên tử thi.

Thiện Tinh hay được việc này liền đến trong rừng Tha Ma, thấy Khổ Đắc thọ thân quỉ đói, ở bên tử thi ngồi xổm khum lưng.

Thiện Tinh hỏi quỉ đói: Đại Đức đã chết rồi ư?

Khổ Đắc đáp: Tôi đã chết.

Tại sao mà chết?

Vì đau bụng mà chết.

Ai mang thây Đại Đức ra đây?

Bạn học của tôi.

Mang thây bỏ chỗ nào?

Ông là người ngu! Ông há chẳng biết rằng đây là rừng Tha Ma ư?

Đại Đức thọ thân gì?

Tôi mang lấy thân quỉ ăn đồ ói mửa.

Ông nên nghe kỹ! Lời nói của Đức Như Lai, là lời lành, lời chân thật, lời phải thời, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp. Sao ông lại chẳng tin lời chân thật của Như Lai. Nếu có kẻ nào chẳng tin lời nói chân thật của Như Lai thời kẻ đó cũng phải thọ lấy thân như tôi.

Thiện Tinh trở về bạch với ta rằng: Thế Tôn! Ni Kiền Tử Khổ Đắc sau khi chết được sanh lên Cõi Trời Đao Lợi.

Ta nói: Này người ngu! Bậc A La Hán là bậc vô sanh, sao ngươi lại nói Khổ Đắc được sanh lên Cõi Trời Đao Lợi?

Thiện Tinh bạch rằng: Thế Tôn! Ni Kiền Tử Khổ Đắc thiệt chẳng sanh lên Cõi Trời, hiện nay đương thọ thân quỉ đói.

Ta nói: Này người ngu! Lời của Chư Phật là lời thành thật, không bao giờ nói sai.

Thiện Tinh liền bạch rằng: Dầu lúc đó Đức Như Lai nói như vậy, nhưng tôi trọn không có lòng tin.

Này thiện nam tử! Ta cũng thường thuyết pháp cho Thiện Tinh Tỳ Kheo, mà Thiện Tinh tuyệt không có lòng tin thuận.

Này thiện nam tử! Dầu Thiện Tinh đọc tụng mười hai Bộ Kinh, chứng được Tứ Thiền, nhưng chẳng hiểu nghĩa một kệ một câu nhẫn đến một chữ. Vì gần gũi bạn ác nên mất Tứ Thiền, sanh kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật, không pháp, không có Niết Bàn. Sa Môn Cù Đàm giỏi tướng số nên có thể biết được tâm niệm của người.

Ta bảo Thiện Tinh:

Những pháp của ta giảng nói: Ban đầu, chặn giữa, rốt sau, điều lành, lời khéo, nghĩa chánh, không xen tạp, thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh.

Thiện Tinh lại nói rằng: Dầu Đức Như Lai vì tôi mà thuyết pháp, nhưng tôi vẫn nói quyết rằng không nhân không quả.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử! Nếu ông chẳng tin những việc như vậy, nay Thiện Tinh ở gần sông Ni Liên Thiền, ta cùng ông có thể đến đó để hỏi.

Liền đó Đức Như Lai cùng Ca Diếp Bồ Tát đến chỗ Thiện Tinh Tỳ Kheo.

Thiện Tinh thấy Phật từ xa đi đến liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác này, hiện thân đọa vào địa ngục A tỳ.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử! Thiện Tinh dầu vào trong Phật Pháp vô lượng công đức, nhưng trọn không đặng mảy mún lợi ích, đó là vì phóng dật, gần bạn ác.

Ví như có người dù vào biển lớn thấy nhiều châu báu, nhưng vì phóng dật nên không được của báu. Lại như người vào biển thấy châu báu, hoặc tự giết mình chết, hoặc bị ác quỉ giết chết. Cũng vậy, Thiện Tinh dầu vào trong Phật Pháp nhưng bị bạn ác giết hại.

Này thiện nam tử! Do đây nên Đức Như Lai xót thương thường bảo rằng: Thiện Tinh phóng dật quá nhiều.

Này thiện nam tử! Nếu là người trước kia nghèo cùng, với người này dầu có xót thương nhưng lòng thương không nhiều lắm. Nếu là người trước kia giàu lớn, về sau suy sụp nghèo cùng với người này, lòng xót thương sâu đậm hơn.

Thiện Tinh Tỳ Kheo cũng như vậy, đã thọ trì đọc tụng mười hai Bộ Kinh, chứng đặng Tứ Thiền, tồi để thối thất tất đáng xót thương. Do đây nên ta nói Thiện Tinh phóng dật quá nhiều nên dứt mất những căn lành. Hàng đệ tử của ta người nào nghe thấy việc này đều sanh lòng xót thương sâu đậm đối với Thiện Tinh Tỳ Kheo.

Từ nhiều năm ta thường cùng Thiện Tinh Tỳ Kheo gần gũi nhau, mà Thiện Tinh tự sanh lòng tà ác, chẳng bỏ ác kiến.

Này thiện nam tử! Từ xưa ta thấy Thiện Tinh có chút ít căn lành như lông tóc, trọn chẳng huyền kỳ Thiện Tinh là dứt tuyệt căn lành, là hạng hạ tiện Nhất xiển đề phải đọa địa ngục.

Bởi Thiện Tinh tuyên bố rằng không nhân không quả, không có tạo nghiệp, do đây nên ta huyền ký Thiện Tinh là hạng Nhất xiển đề hạ tiện dứt hẳn căn lành phải đọa địa ngục cả kiếp.

Này thiện nam tử! Như có người té chìm trong hầm phẩn, có bạn lành đưa tay mò đó, nếu nắm đặng đầu tóc, bèn muốn kéo lên, mò lâu chẳng được mới có tâm niệm thôi vớt. Cũng vậy ta tìm chút ít căn lành nơi Thiện Tinh để cứu vớt, nhưng trọn ngày tìm cầu mà chẳng được mảy lông tóc căn lành, do đây nên chẳng cứu được tội đọa địa ngục của Thiện Tinh.

Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Đức Như Lai cớ gì huyền ký Thiện Tinh sẽ đọa địa ngục A tỳ.

Này thiện nam tử! Thiện tinh Tỳ Kheo có quyến thuộc đông, đều cho rằng Thiện Tinh đã chứng được quả A La Hán. Vì ta muốn phá tâm niệm tà ác của họ nên huyền ký Thiện Tinh do phóng dật phải đọa địa ngục.

Này thiện nam tử! Ông nên biết rằng lời nói của Như Lai là lời chân thật không sai. Nếu Phật huyền ký sẽ đọa địa ngục, thời chẳng bao giờ không đọa.

Hàng Thanh Văn, Duyên Giác huyền ký thời có hai thứ hoặc đúng, hoặc chẳng đúng. Như Mục Kiền Liên bảo người nước Ma Già Đà sau bảy ngày Trời sẽ mưa, đến kỳ Trời trọn chẳng mưa. Có lúc ông dự ký bò cái sẽ đẻ bò con trắng, đến lúc sanh sản lại đẻ bò con vá. Ông ấy dự ký sanh trai, về sau lại sanh con gái.

Này thiện nam tử! Thiện Tinh thường tuyên bố với vô lượng chúng sanh rằng tất cả không có quả lành quả dữ, do đó dứt hẳn tất cả căn lành không còn mảy mún như lông tóc.

Từ lâu ta biết rõ Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, ta vẫn cố ý cùng Thiện Tinh ở chung cả hai mươi năm. Vì nếu ta không ở gần Thiện Tinh, thời Thiện Tinh sẽ khuyên bảo vô lượng chúng sanh tạo những nghiệp ác. Đây gọi là trí lực thứ năm của Đức Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Hạng Nhất xiển đề do nhân duyên gì mà không có pháp lành?

Này thiện nam tử! Vì hạng Nhất xiển đề dứt căn lành.

Chúng sanh đều có năm căn: Tín, tấn, niệm, định và huệ, mà hạng Nhất xiển đề dứt hẳn căn lành này. Do nghĩa đây nên giết hại con kiến còn mắc phải tội sát sanh, nhưng giết hại hạng Nhất xiển đề không mắc tội sát sanh.

Bạch Thế Tôn! Vì Nhất xiển đề trọn không pháp lành nên gọi là Nhất xiển đề ư?

Đúng như vậy! Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có ba thứ pháp lành: Quá khứ, vị lai và hiện tại. Hạng Nhất xiển đề không thể dứt được pháp lành đời vị lai, sao lại nói rằng dứt hết pháp lành gọi là Nhất xiển đề.

Này thiện nam tử! Luận về sự dứt có hai thứ: Một là hiện tại dứt, hai là hiện tại chướng ngại vị lai. Hạng Nhất xiển đề đủ cả hai thứ này nên ta nói rằng Nhất xiển đề dứt hết căn lành.

Này thiện nam tử! Ví như có người té chìm trong hầm phẩn, dầu còn một sợi tóc chưa chìm, nhưng một sợi tóc không thể kéo nổi toàn thân. Hạng Nhất xiển đề cũng như vậy dầu đời vị lai sẽ có căn lành nhưng không thể cứu được khổ địa ngục. đời vị lai dầu có thể cứu khỏi, nhưng đời hiện tại không thể làm sao được. Do đây nên gọi là kẻ không thể cứu vớt.

Do Phật Tánh làm nhân duyên thời cứu vớt được, vì Phật Tánh chẳng phải quá khứ chẳng phải vị lai chẳng phải hiện tại, nên Phật Tánh không bị dứt mất. Như hột mục hư thời không thể mọc mọng, hạng Nhất xiển đề cũng như vậy.

Bạch Thế Tôn! Hạng Nhất xiển đề chẳng dứt Phật Tánh, Phật Tánh là pháp lành, tại sao nói rằng dứt tất cả pháp lành?

Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại có Phật Tánh thời chẳng được gọi là Nhất xiển đề. Như ngã tánh trong thế gian. Phật Tánh là thường chẳng thuộc về ba đời.

Nếu thuộc về ba đời thời gọi là vô thường. Vì đời vị lai sẽ thấy Phật Tánh, nên nói rằng chúng sanh đều có Phật Tánh. Do nghĩa này nên bậc Thập Trụ Bồ Tát trang nghiêm đầy đủ công hạnh mới thấy được phần ít.

Bạch Thế Tôn! Phật Tánh là thường dường như hư không, tại sao Đức Như Lai nói rằng vị lai?

Nếu Đức Như Lai nói rằng hạng Nhất xiển đề không có pháp lành, lẽ đâu hạng này không có lòng thương tưởng đối với bạn bè, cha mẹ, vợ con thân quyến.

Nếu họ có lòng thương tưởng thời lòng thương này chẳng phải là lành ư?

Lành thay! Lành thay! Lời ông hỏi rất hay Phật Tánh dường như hư không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tất cả chúng sanh có ba thứ thân. Thân quá khứ, thân vị lai, thân hiện tại. Đời vị lai chúng sanh trang nghiêm đầy đủ thân thanh tịnh thấy được Phật Tánh, nên ta nói rằng Phật Tánh đời vị lai.

Này thiện nam tử! Ta vì chúng sanh có lúc hoặc nói nhân là quả, có lúc hoặc nói quả là nhân, do đây nên trong Kinh nói rằng mạng căn là ăn uống, thấy sắc là chạm xúc. Vì thân đời vị lai thanh tịnh nên nói Phật Tánh.

Bạch Thế Tôn! Như ý nghĩa của Đức Phật nói như vậy, sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh?

Này thiện nam tử! Dầu Phật Tánh hiện tại không, nhưng chẳng được nói rằng chúng sanh không Phật Tánh. Như tánh hư không kia, dầu không hiện tại mà chẳng được nói là không. Dầu tất cả chúng sanh là vô thường, còn Phật Tánh là thường trụ không biến đổi, do đây nên trong Kinh ta nói rằng Phật Tánh của chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dường như hư không.

Nếu có trong có ngoài thời chẳng được gọi là duy nhất, là thường trụ, cũng chẳng được gọi là tất cả chỗ đều có. Dầu hư không chẳng phải trong chẳng phải ngoài nhưng tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh của chúng sanh cũng như vậy.

Ông nói rằng hạng Nhất xiển đề có pháp lành đó, lời này không đúng nghĩa. Vì hạng Nhất xiển đề tất cả hành động nói năng đều là tà nghiệp, vì họ chẳng tin chẳng cầu nhân quả. Như gốc, cây, nhánh, lá, bông, hột, trái A Lê Lặc đều đắng, tất cả hành nghiệp của Nhất xiển đề cũng như vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần