Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Quang Minh đồng Tử - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thi Hộ, Đời Tống

PHẬT THUYẾT KINH

NHÂN DUYÊN QUANG MINH ĐỒNG TỬ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thi Hộ, Đời Tống  

PHẦN NĂM  

Vua nói: Trưởng giả, trong nhà của ông xem vào hiện tượng gì để phân biệt ngày đêm?

Trưởng giả đáp: Theo hoa khép, hoa nở để phân biệt ngày đêm.

Theo tiếng chim lạ hót và chim không hót để phân biệt ngày đêm.

Theo ánh sáng của châu báu ma ni hiện và không hiện để phân biệt ngày đêm.

Hoặc có hoa khép lại nhưng không phải đêm, có hoa nở nhưng không phải ngày.

Ánh sáng của các báu không hiện ra nhưng không phải đêm, có ánh sáng của các báu hiện ra mà không phải ngày.

Chim lạ yên lặng mà không phải đêm, có tiếng chim lạ hót nhưng không phải ngày.

Vua Tần Bà Sa La nghe việc này rồi, nói với trưởng giả Quang Minh: Ta tin lời Phật chân thật không dối.

Phật đã nói: Ông ở trong loài người thọ hưởng phước Trời. Việc ấy đúng như thật.

Vua Tần Bà Sa La nói xong, ra khỏi nhà trưởng giả.

Lúc Thái Tử A Xà Thế sắp ra khỏi nhà của trưởng giả Quang Minh, đã lén lấy một hạt châu ma ni tên Phiến hằng, đưa cho người hầu giữ.

Về lại cung Vua rồi kêu người ấy đến bảo: Ta đã đưa hạt châu ma ni cho ngươi, ngươi nên mang đến đây. Ta muốn xem kỹ.

Người hầu mở tay muốn dâng lên Thái Tử, nhưng không thấy hạt châu ấy, liền tâu: Không biết hạt châu ấy mất ở nơi nào.

Lúc đó, Thái Tử liền lấy chùy đánh người hầu.

Trưởng giả Quang Minh dùng phước lực Cõi Trời biết được việc ấy, bèn đến hỏi Thái Tử: Vì sao lại lấy chùy đánh người hầu này?

Thái Tử đáp: Vừa rồi, ở nhà ông, tôi lén lấy hạt châu ma ni đưa cho kẻ hầu này, nay bỗng mất đi. Tôi đã lấy trộm, người này còn trộm lại. Tội ấy càng nặng, cho nên đánh bằng chùy.

Trưởng giả tâu: Ông lấy châu của tôi, không gọi đấy là trộm. Nay đã không thấy, cũng không phải là người khác trộm. Hạt châu này đã trở lại ở nhà tôi.

Vì sao?

Người hưởng phước Trời mới có thể dùng được. Nếu Thái Tử muốn cần điều gì, tôi sẽ dâng cho, không tiếc gì cả.

Thái Tử A Xà Thế sinh lòng nghi ngờ, nghĩ: Hiện nay đối với trưởng giả này, ta chưa muốn lấy gì. Sau khi cha ta Vua Tần bà sala băng hà ta mới mong cầu các tài sản vật báu của ông ta. Nghĩ rồi, Thái Tử A Xà Thế cùng với Đề bà đạt đa lập mưu hại chết Vua cha. Sau khi giết cha rồi, tự làm lễ quán đảnh để lên ngôi.

Khi lên ngôi, ông cho mời trưởng giả Quang Minh đến và nói: Trưởng giả là anh ta. Ta muốn đến ở nhà ông và hễ có chỗ nào cần, ông nên cung cấp cho ta.

Trưởng giả Quang Minh suy nghĩ: Vua Tần Bà Sa La dùng chánh pháp trị đời. Người này hung ác, lại bạo ngược, giết Phụ Vương của mình, tự mình làm lễ quán đảnh để lên ngôi Vua. Giờ ở trước ta nói ra lời kiêu mạn, muốn ở nhà ta, ta cũng nên thuận theo.

Nếu làm trái, người này sẽ nhân đó hại cả gia tộc của ta.

Nghĩ rồi, liền tâu: Đại Vương! Tôi biết lòng Đại Vương có điều mong muốn. Mong rằng trước hết Đại Vương đến nhà tôi, hễ cần gì tùy ý lấy dùng.

Sau tôi sẽ đến cung Vua.

Vua A Xà Thế nói: Nếu được như vậy rất là tốt.

Khi Vua nghị bàn rồi, đến nhà trưởng giả trước. trưởng giả lại trở về cung Vua.

Trưởng giả có tướng đặc biệt an lành của hàng Trời, người. trưởng giả đi tới nơi nào, các kho vật báu cũng đều đến theo.

Vua A Xà Thế ở nhà trưởng giả, thấy kho châu báu bảy lần hiện ra, bảy lần biến mất.

Thái Tử nghĩ: Các kho vật báu trong nhà này đều đi theo ông ấy, ta không thể có được.

Ta nên bày mưu kế khác: Bèn sai một số người hung ác chở đầy một xe đưa đến nhà Trưởng giả Quang Minh để lấy trộm châu báu.

Số người ấy đến nơi rồi, bày kế để rình lấy trộm châu báu.

Lúc ấy, trưởng giả Quang Minh ở trên lầu cao có các hầu gái thân cận. Khi đó, các hầu gái thấy những người trong xe ấy, họ đã biết là kẻ hung ác, đến rình lấy trộm châu báu.

Các hầu gái thấy rồi, cười chỉ họ mà nói: Đây là kẻ trộm cắp hung ác.

Trưởng giả nghe cười nói, bỗng hiểu rõ mọi việc.

Các người trộm kia ẩn núp suốt đêm. Đến sáng sớm, nhiều người cùng thấy họ, đồng lòng xướng lên: Vua A Xà Thế là người nghịch ác, giết hại Phụ Vương. Nay lại sai các người ác đến trộm cắp châu báu nhà trưởng giả.

Khi Vua A Xà Thế biết việc này, sai người đến chỗ trưởng giả Quang Minh và nói: Vì sao trưởng giả khinh chê người của ta?

Trưởng giả Quang Minh biết ý Vua, liền sai đuổi các người ác đi khỏi hết.

Rồi trưởng giả tự nghĩ: Vua A Xà Thế rất nghịch ác, giết hại Phụ Vương.

Có phải sau này cũng làm việc giết hại với ta không?

Ta phải xả bỏ những gì đã có.

Nhớ lời trước Phật đã thọ ký: Ở trong pháp Phật xuất gia học đạo, dứt các phiền não, chứng A La Hán. Ta nên xuất gia theo Phật. Nghĩ xong, liền đem kho báu làm các việc từ thiện, đem ban cho khắp cả, đem lợi lạc đến khắp mọi người.

Bấy giờ, trưởng giả Quang Minh làm các việc từ thiện ban phát những lợi lạc với mọi người, nhưng không cho các người thân thuộc biết, làm xong việc, ông âm thầm đến chỗ Phật.

Đến rồi, đầu mặt sát đất lễ chân Thế Tôn và bạch: Xin Phật Thế Tôn ban cho con được lợi lành. Con muốn xuất gia, ở trong pháp Phật, thọ đầy đủ giới, làm Tỳ Kheo, tịnh tu phạm hạnh. Xin Phật mở lòng thương lớn thâu nhận con.

Phật bảo: Lành thay! Hãy đến trong pháp của ta và siêng tu phạm hạnh.

Phật vừa nói xong, râu tóc trưởng giả Quang Minh tự nhiên rụng, thành tướng Tỳ Kheo, thân đắp y Tăng già lê, bưng bình bát.

Qua bảy ngày đêm, tâm ở trong sự suy nghĩ chân chánh sáng suốt tu phạm hạnh và những phép tắc oai nghi như người trăm tuổi hạ.

Phật đem y Tăng già lê che trên đỉnh đầu Tỳ Kheo Quang Minh, các căn đều vắng lặng, một lòng ở trong chánh pháp.

Bấy giờ, trong hư không có tiếng khen ngợi: Ở vào thời có Phật, Tỳ Kheo Quang Minh tròn đầy ý nguyện, lại phát sinh ý chí mạnh mẽ chắc chắn, xem xét năm đường sinh tử luân hồi, xoay vần chuyển động không lúc nào ngừng. Các nghiệp của chúng sinh mỗi loài khác nhau, hiện rõ trong sự sống chết. Chỉ có chánh pháp của Phật mới có thể giải thoát.

Quan sát vậy rồi thấy pháp bốn đế, hiểu rõ sinh tử, xa lìa tưởng tham ái của ba cõi. Xem các vật báu vàng ròng cũng như đất bùn, dứt các phiền não, chứng quả A La Hán, đều đầy đủ ba minh, sáu thông cao tột không ai bằng, bay đi trên hư không tự tại như ý. Tất cả tiếng khen và lợi dưỡng ở đời không tham đắm. Chư Thiên, Thích, Phạm đều đến cúng dường.

Khi ấy, các chúng Tỳ Kheo trong hội thấy sự việc này sinh lòng nghi ngờ, cùng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tỳ Kheo Quang Minh này vì nhân duyên gì khi chưa xuất gia, ở trong cõi người thọ hưởng được phước Trời.

Vào trong pháp Phật, vừa mới xuất gia liền trừ tất cả phiền não, chứng A La Hán?

Phật bảo các Tỳ Kheo: Tỳ Kheo Quang Minh này đời trước căn lành đã thuần thục, đã được lợi ích, chắc chắn như vậy. Cho nên Tỳ Kheo Quang Minh vì duyên thiện đó mà được quả như thế.

Các Tỳ Kheo nên biết! Các quả báo của nghiệp đều do nguyên nhân tự mình làm ra, không phải được thành tựu do địa giới bên ngoài, cũng không phải do đất, nước, gió, lửa, không phải được thành tựu do các uẩn, xứ, giới. Thiện hay ác đều do nghiệp của chính mình mà nhận lấy quả báo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các Tỳ Kheo nói kệ khen ngợi:

Tất cả chúng sinh đã tạo nghiệp

Trải qua trăm kiếp cũng không mất

Đến một lúc nhân duyên hòa hợp

Sẽ theo đó nhận lấy quả báo.

Phật bảo các Tỳ Kheo: Các ông lắng nghe! Tỳ Kheo Quang Minh do nhân duyên nơi đời quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp, có Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật đó cùng với sáu trăm hai mươi vạn chúng Tỳ Kheo đi khắp trong thành của nước lớn Mãn độ ma để, rồi ở lại một nơi.

Vua của nước ấy tên là Mãn độ ma, rất tin chánh pháp, dùng chánh pháp trị nước. Đất nước rộng lớn, dân chúng hùng mạnh, giàu có, an ổn, không có các nạn bệnh khổ, đói khát, cũng không có chiến tranh oán hại, trộm cap, sợ hãi. Muôn dân hòa thuận, đầy đủ tướng thiện.

Trong thành ấy, có một trưởng giả tên là Tích Tài, tin tưởng chánh pháp. Nhà giàu có, của báu vô lượng, ngang bằng Thiên Vương Tỳ Sa Môn.

Bấy giờ, trưởng giả biết Như Lai Tỳ Bà Thi và chúng Tỳ Kheo đã đến trong thành, liền nghĩ: Ta muốn mời Phật và chúng Tỳ Kheo để cúng dường các thức ăn uống và nhà ở trong ba tháng. Nghĩ xong liền đến chỗ Phật, đầu mặt làm lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi qua một bên.

Phật Tỳ Bà Thi liền tùy theo ý trưởng giả chỉ dạy pháp thiện lợi, giảng nói các điều quan trọng.

Trưởng giả Tích Tài nghe chánh pháp rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục ngay ngắn, chắp tay hướng về Phật và thưa: Bạch Thế Tôn! Nay con thỉnh mời Phật và chúng Tỳ Kheo đến nhà con. Con xin cúng dường trong ba tháng các thức ăn uống và nhà ở. Tất cả các nhu cầu đều cung cấp đầy đủ. Xin Phật mở lòng thương nhận lời con thỉnh mời.

Phật Tỳ Bà Thi im lặng.

Trưởng giả Tích Tài thấy Phật im lặng, biết Phật đã nhận lời, lòng rất vui mừng, đầu mặt lễ sát chân Phật, ra khỏi hội Phật, trở về nhà mình.

Lúc ấy, Vua Mãn độ ma nghe Phật Tỳ Bà Thi và sáu trăm hai mươi vạn chúng Tỳ Kheo đến thành của nước mình, liền nghĩ: Nay ta sẽ thỉnh mời Phật và chúng Tỳ Kheo về trong cung để cúng dường các thức ăn uống và nhà ở an cư trong ba tháng. Tất cả nhu cầu sẽ tuy theo mà cung cấp đủ. Nghĩ xong, cùng quan hầu thân cận đến nơi Phật. Đến rồi, đầu mặt lễ sát chân Phật, rồi lui xuống ngồi một bên.

Lúc ấy, Phật tùy theo ý muốn, chỉ dạy thiện lợi, giảng pháp chính yếu.

Vua nghe rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Phật, bạch: Bạch Thế Tôn! Nay con thỉnh Phật và chúng Tỳ Kheo đến trong cung. Con xin cúng dường thức ăn uống trong ba tháng an cư.

Tất cả nhu cầu ăn uống, y phục, thuốc thang, giường nằm, tùy theo đó mà cung cấp cúng dường đầy đủ. Xin Phật mở lòng lành thương xót nhận lời con thỉnh mời.

Phật bảo: Này Đại Vương! Ta đã nhận lời thỉnh mời của trưởng giả Tích Tài trước rồi.

Vua thưa: Xin Phật đến cung, con xin cúng dường thức ăn uống. Con sẽ ra lệnh cho trưởng giả Tích Tài.

Phật bảo: Đại Vương! Theo pháp thì không nên làm trái lời đã thỉnh mời trước.

Vua Mãn độ ma đầu mặt lễ sát chân Phật Tỳ Bà Thi, rồi từ hội Phật trở về cung, rồi sai sứ đến nhà trưởng giả Tích Tài, truyền lệnh Vua: Ông nên biết! Vua đã thỉnh Phật Tỳ Bà Thi và chúng Tỳ Kheo trước. Ông có thể làm thức ăn cúng dường vào một ngày khác.

Trưởng giả Tích Tài nói với sứ giả: Xin Vua xót thương, tôi đã thỉnh mời Phật và chúng Tỳ Kheo trước. Sứ giả trở về tâu Vua.

Vua lại sai sứ đến nói với trưởng giả: Nay ông ở trong nước ta, theo lý thì nên để cho ta thỉnh Phật trước.

Trưởng giả nói với sứ giả: Nếu Đại Vương nói ở trong nước Vua, Vua phải được thỉnh trước, về lý thật không đúng. Xin Vua chớ nên gây trở ngại. Sứ giả trở về tâu lại như vậy.

Vua lại sai sứ giả nói với trưởng giả: Nên biết! Giả như ngươi có thỉnh rồi, ta cũng không gây trở ngại.

Nhưng nếu ngươi có thể làm thức ăn thơm ngon, Phật sẽ tự đến.

Trưởng giả Tích Tài nghe nói, liền ngay đêm ấy, dùng củi thơm để đốt nấu làm ra các thứ thức ăn uống sạch sẽ, mùi vị thơm ngon. Vua Mãn độ ma ở trong cung cũng làm các thức ăn uống.

Đến sáng sớm ngày hôm sau, trong nhà trưởng giả đã trải bày giường tòa trang nghiêm tốt đẹp và những bình nước sạch.

Sắp xếp xong rồi, sai người đến chỗ Phật, bạch với Phật: Thức ăn uống đã làm xong, giờ ăn cũng đã đến. Xin Phật đến dự. Nay đã đúng lúc.

Bấy giờ, Phật Tỳ Bà Thi cùng chúng Tỳ Kheo đúng giờ, đắp y, bưng bình bát đến nhà trưởng giả Tích Tài, nhận sự cúng dường.

Đến nơi, trước tiên Phật rửa chân, rồi ngồi trên tòa tốt đẹp nhất. Các chúng Tỳ Kheo mỗi người cũng đều rửa chân, ngồi theo thứ tự. Trưởng giả Tích Tài chắp tay cung kính, lễ sát chân Phật. Lễ rồi, tự bưng thức ăn thơm ngon dâng lên Phật Thế Tôn và lần lượt dâng đến các Tỳ Kheo.

Phật và chúng Tỳ Kheo ăn xong, thâu lấy y bát, rửa tay sạch sẽ, lần lượt ngồi yên lặng. Trưởng giả Tích Tài cũng ngồi cung kính ở trước Phật, lắng nghe Phật nói pháp.

Khi đó, Phật Tỳ Bà Thi tùy theo khả năng của trưởng giả Tích Tài, chỉ dạy lợi hành, giảng nói pháp chính yếu. trưởng giả nghe pháp rồi rất vui mừng, đảnh lễ sát chân Phật. Trưởng giả Tích Tài cúng dường xong rồi, Phật ra khỏi nhà ông ấy.

Lúc này, Vua Mãn độ ma còn ở trong cung làm thức ăn uống, muốn cho hơn trưởng giả.

Vua bảo cận thần: Ở trong cung ta, quyến thuộc phi tần rất đông.

Người nào làm thức ăn thơm ngon hảo hạng hơn trưởng giả Tích Tài?

Cận thần tâu: Đại Vương phải cấm các người bán củi. Trưởng giả sẽ không có củi để nấu được thức ăn ngon cúng dường Phật.

Vua y như lời nói, ra lệnh cấm bán củi. Nếu người nào cố bán sẽ bị đuổi ra khỏi nước.

Trưởng giả Tích Tài nghe có lệnh cấm bán củi, sinh lòng tức giận, nói: Trong nhà của ta đã có gỗ thơm, còn cần gì củi, để đốt thân mình sao?

Trưởng giả ở nhà, lấy gỗ hương và dùng dầu thơm đốt nấu làm thức ăn. Mùi thơm ấy tỏa khắp trong thành lớn.

Vua Mãn độ ma nghe mùi thơm này, hỏi cận thần: Mùi thơm này từ nơi nào bay đến?

Cận thần thưa: Mùi thơm này từ nhà của trưởng giả Tích Tài, ông ấy đem gỗ thơm đốt nấu làm thức ăn uống nên các mùi thơm ấy bay đến nơi này.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần