Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Hai Mươi Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý

HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Duy Tịnh, Đời Triệu Tống  

PHẦN HAI MƯƠI BỐN  

Này Hải Ý! Ví như trong thành có một cây lớn, có người muốn đến chặt các rễ cây ấy, chặt rồi liền đi. Lúc chặt cây, cây dần dần ngã thấp xuống, cuối cùng ngã xuống đất theo phía đã chặt. Bồ Tát cũng vậy, ở trong lâu xa đã tu tập pháp thiện, hướng về nhất thiết trí, dần dần thể nhập nhất thiết trí, rốt cùng thành thục tất cả thiện căn.

Đã thành thục rồi đều dùng để hồi hướng nơi nhất thiết trí, hồi hướng cho tất cả chúng sinh thêm nhiều công đức. Nguyện hồi hướng khiến Thánh Chúng của Tam Bảo không đoạn không tuyệt. Hồi hướng thân tướng trang nghiêm viên mãn, đầy đủ các tướng tốt. Hồi hướng viên mãn ngữ nghiệp trang nghiêm, rộng vì chúng sinh thuyết pháp không hư dối.

Hồi hướng tâm nghiệp trang nghiêm, thường nghĩ đến định nguyện thành tựu của Chư Phật mà Bồ Tát ấy không dụng công, không chỗ giác ngộ mà đều có thể thành thục tất cả thiện căn để hồi hướng đến khắp nhất thiết trí, không rơi vào thừa khác, hoặc định hoặc tán. Đối với pháp phần bồ đề tu tập viên mãn, đều là do sức hồi hướng của bản nguyện phương tiện thiện xảo.

Này Hải Ý! Lại như Bí Sô nhập Diệt định trước tiên phải cần đợi nghe tiếng kiền chùy, sau đó mới xuất định. Vị ấy vào định rồi mà tiếng kiền chùy cũng chưa vào trong định, sau đó Bí Sô ấy nhờ tiếng kiền chùy mới khởi định.

Bồ Tát cũng vậy, muốn giải thoát tất cả chúng sinh thì phải khởi thệ nguyện đại bi: Ta sẽ cứu độ tất cả chúng sinh khiến họ giải thoát hết thảy, đều sẽ thành tựu hạnh nghiệp bồ đề. Đối với các chúng sinh, thi hành tâm từ rộng lớn, ở trong dòng sinh tử, vận tâm ý thức cứu độ rộng khắp.

Tuy nhập định, dùng bản nguyện đại bi độ thoát chúng sinh nên không bao giờ rơi vào thừa Thanh Văn, Duyên Giác. Sau đó từ định khởi xuất, khai phát chánh tuệ, trở lại tích tập pháp phần bồ đề, rộng vì chúng sinh mà hóa độ, thành tựu đầy đủ.

Này Hải Ý! Ông hãy quán sự nghiệp hành dụng của các Bồ Tát đều là tối thắng, tuy nhập trong Tam Ma Địa tịch tĩnh mà có thể siêu vượt cảnh giới giải thoát của Thanh Văn, Duyên Giác.

Lại nữa, này Đại Bồ Tát Hải Ý! Nay ta dùng ví dụ để làm sáng tỏ nghĩa này.

Ví như ở thế gian có hai người: Một người mặc áo giáp Kim Cang kiên cố nhảy vào trong đống lửa lớn. Một người thì mặc áo giáp cỏ khô cũng nhảy vào trong đống lửa lớn đang cháy bùng.

Này Hải Ý! Ý ông thế nào?

Trong hai người ấy người nào bị lửa thiêu cháy, còn người nào không bị lửa đốt cháy?

Hải Ý bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người mặc áo giáp Kim Cang kiên cố tuy vào đống lửa lớn nhưng nhờ áo giáp kiên cố khéo bảo hộ nên người này không bị thiêu cháy. Còn người mặc áo giáp bằng cỏ khô nhảy vào nơi đống lửa lớn thì nhất định người ấy sẽ bị lửa thiêu đốt.

Vì sao?

Vì cỏ khô không thể bảo hộ đối với đống lửa cháy ấy được.

Phật nói: Này Hải Ý! Người thân mặc áo giáp vào trong đống lửa lớn không bị thiêu cháy, đó là Bồ Tát. Bồ Tát thường dùng đại từ, đại bi làm áo giáp nội tâm Kim Cang kiên cố, sức của Kim Cang luôn bảo hộ sự giải thoát cho chúng sinh, chưa từng xả bỏ thệ nguyện.

Tuy thường quán sát hết thay chúng sinh là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi, vào trong Tam Ma Địa tịch tĩnh nhưng thường siêu vượt chánh vị nơi Thanh Văn, Duyên Giác, không cầu đắc quả vị. Ở trong định ấy, tuy thọ nhận thắng vị mà không hề đắm vướng, từ định khởi xuất. từ định khởi xuất rồi làm nghiêm tịnh Cõi Phật, thành thục chúng sinh, viên mãn Phật trí.

Này Hải Ý! Người dùng cỏ khô làm áo giáp nhảy vào trong đống lửa lớn thì sẽ bị thiêu đốt, đó là hạng thừa Thanh Văn, ở trong các hành sinh sợ

hãi, lại quán ba cõi luôn bị thiêu đốt không ngừng, xả bỏ chúng sinh, xa lìa đại bi, ở trong Tam Ma Địa tịch tĩnh sinh tâm tham đắm, không chỗ dung nạp. Nếu không chứng được quả thứ tám mà có thể khởi xuất định ấy thì không thể có.

Vì sao?

Vì hàng thừa Thanh Văn ở nơi hạnh phước, hạnh tội và hạnh bất động đều không thể tu tập. Nếu chư Bồ Tát có thể ở nơi vô lượng phước trí tu tập thành thục, không ở giữa đường thủ chứng thật tế thì rốt cùng sẽ được viên mãn tất cả pháp Phật.

Này Hải Ý! Cho nên Bồ Tát tác pháp ở nơi không, vô tướng, vô nguyện, thường sinh tưởng nghĩ như đống lửa lớn, tuy đối với các pháp này quán sát thấu đáo rồi mà lại ở trong pháp đó khởi trí khéo hành, quyết không thủ chứng thật tế.

Vì thế các Bồ Tát không thành tựu trọn vẹn thiện căn thì không nên tu tập.

Hải Ý! Bồ Tát thành tựu trọn vẹn thiện căn, nghĩa là Bồ Tát ở trong Phật Pháp thâm diệu như lý tu hành, chứ không ở giữa chừng thủ chứng thật tế, đó gọi là thành thục thiện căn.

Vì sao như vậy?

Vì Bồ Tát ấy thành tựu đầy đủ pháp đại thừa, dần dần hướng về, dần dần thể nhập, dần dần thù thắng, mà chẳng thành thục ở nơi thừa khác.

Hải Ý! Như lò đúc gốm lúc mặt trời chưa lên thì chưa chín tới, đang cần phải nung nấu thêm chứ chưa thành đồ dùng được, sau khi chín tới mới có thể gọi là đồ dùng. Bồ Tát cũng vậy, tuy đang rộng tu các thiện căn, nếu không hồi hướng nơi nhất thiết trí thì không thể được gọi là Ba la mật đa.

Này Hải Ý! Lại như chân kim đẹp đẽ nếu chưa được thợ kim hoàn chế tác, trau chuốt hoàn tất thì chưa được gọi là vật trang sức, chỉ được gọi là chân kim nếu đã được khéo tay thành thục rồi mới gọi là một vật trang sức. Bồ Tát cũng lại như vậy, chỗ tu thiện căn nếu không hồi hướng về nhất thiết trí thì không thể gọi là Ba la mật đa, nếu hồi hướng về nhất thiết trí mới được gọi là Ba la mật đa.

Này Hải Ý! Vì duyên cớ đó, các Bồ Tát thường phải vận dụng phát tâm quảng đại để thành tựu đầy đủ thiện căn. Tùy sự thành thục các thiện căn xong mới hồi hướng về nhất thiết trí. Vì sự hồi hướng nơi nhất thiết trí Bồ Tát phải ở nơi pháp thâm diệu, như lý tu hành, không ở giữa chừng mà thủ chứng thật tế.

Lúc ấy, Bồ Tát Hải Ý lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát đã làm việc khó làm, có thể khéo phòng hộ lỗi lầm nơi các cõi, ở trong chỗ hành hóa mà không sinh cấu nhiễm. Nếu các Bồ Tát đạt đầy đủ phương tiện thiện xảo thì có thể hồi hướng.

Vì sao?

Vì Bồ Tát có phương tiện, tuy vào trong thiền định giải thoát Tam Ma Địa, Tam Ma Bát Để nhưng không vì thiền định giải thoát Tam Ma Địa, Tam Ma Bát Để mà chấp trước.

Bồ Tát ấy đạt đầy đủ phương tiện thiện xảo, nên có thể hiện bày các đối tượng tạo tác không rơi vào trong kiến chấp về vô tác, khéo trụ nơi pháp tánh bình đẳng. Nếu có hạng chúng sinh hướng vào tà định, Bồ Tát vì họ mà thuyết pháp chánh định. Vì Bồ Tát ấy muốn khiến cho ý nguyện của chúng sinh viên mãn nên chính mình không trú trong tụ chánh định.

Phật bảo Bồ Tát Hải Ý: Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Bồ Tát ở nơi tất cả chốn thường nên tu tập phương tiện thiện xảo.

Vì sao?

Này Hải Ý! Phương tiện thiện xảo là Bồ Đề của Bồ Tát, nếu không có phương tiện thiện xảo, tức không thành tựu Bồ Đề.

Ví như ở thế gian có một khí cụ chứa ba sắc màu:

1. Màu xanh.

2. Màu đỏ.

3. Màu vàng.

Đó là ba loại sắc cùng chứa trong một khí cụ để nhuộm ba loại áo:

1. Thúy y nhuộm màu xanh.

2. Chiên y nhuộm màu đỏ.

3. Thiên y vô giá thượng diệu nhuộm mau vàng ấy.

Ba loại áo ấy ở trong đồ chứa thợ nhuộm, tùy theo công việc và ý muốn của thợ nhuộm mà đều được các diệu sắc. Nếu cần màu xanh thì được màu xanh, cần màu đỏ thì được màu đỏ, cần màu vàng thì được màu vang, nhưng khí cụ nhuộm kia chưa từng phân biệt.

Này Hải Ý! Khí cụ nhuộm ấy tức là không, vô tướng, vô nguyện.

Có ba hạng người cùng trong một khí cụ ấy:

1. Hàng Thanh Văn.

2. Hàng Duyên Giác.

3. Hàng Đại Thừa.

Đó là ba loại người tùy theo các tác dụng của sở thích nơi tâm, tùy theo sự thích ứng của mỗi một mà thủ đắc trí sắc, nhưng khí cụ không, vô tướng, vô nguyện ấy không hề phân biệt. Nên biết Thúy y kia tức là hàng thừa Thanh Văn, Chiên y kia tức là thừa Duyên Giác, Thiên y vô giá tức là người an trú Đại Thừa.

Này Hải Ý! Ông hãy quán các pháp vốn không có tánh thật, không tánh tác giả, tánh vô ngã, tánh vô nhân, tánh vô thọ giả, tánh vô chủ tể. Nó tùy theo dục niệm mà sinh ra, sinh ra rồi tích tụ mà không chỗ biết rõ cũng không phân biệt.

Này Hải Ý! Nếu có thể hiểu rõ các pháp sinh này thì các Bồ Tát ở trong các pháp mà không hề có một chút biếng trễ mỏi mệt đạt. Nếu đạt tri kiến thanh tịnh như thế thì ở trong các việc hành dụng cũng không thấy có lợi ích không lợi ích tức có thể biết rõ như thật về tánh bình đẳng của các pháp. Biết rõ như thật về tánh bình đẳng của các pháp như vậy rồi thì thường không xả bỏ áo giáp đại bi.

Này Hải Ý! Ví như châu báu lưu ly ở thế gian, tự thể của nó trong suốt không hề có cấu bẩn. Bồ Tát cũng như vậy, biết rõ tự tánh tâm của chúng sinh xưa nay thanh tịnh, trong suốt, sáng tỏ, nhưng vì bị sự che lấp của khách trần phiền não.

Bồ Tát quán như vậy rồi liền nghĩ: Tâm tánh của chúng sinh xưa nay thanh tịnh, chỉ vì khách trần phiền não che lấp nhưng phiền não ấy thật không có chỗ trú, chúng sinh khởi phân biệt hư vọng một cách trái ngược. Ta sẽ vì những hàng chúng sinh ấy mà tuyên nói pháp đoạn trừ phiền não, khởi tâm không biếng trễ. Ta vận dụng tâm thù thắng đối với chúng sinh được chuyển hóa ấy khiến họ đều được giải thoát.

Lại tư duy: Các phiền não này có thể hủy hoại năng lực các chúng sinh nơi các cõi làm cho họ dần dần nhu nhược. Các phiền não này có thể khiến cho chúng sinh ở trong phiền não không thật mà phân biệt hư vọng.

Nếu người nào có thể tác ý sâu bền như thật, quán sát như lý thì người ấy không bị phiền não quấy động. Quán sát như vậy rồi thì phiền não ấy không thể hòa hợp, nếu không cung phiền não hòa hợp thì đó là thiện. Lại nữa, nếu ta bị phiền não đồng hóa thì làm sao vì các chúng sinh bị phiền não ràng buộc mà giảng nói pháp đoạn trừ phiền não.

Vì ta nay không bị phiền não đồng hóa nên có thể giảng nói pháp đoạn trừ phiền não cho các chúng sinh bị phiền não ràng buộc. Nhưng vì ta muốn hóa độ chúng sinh trong luân hồi, khiến cho các thiện căn tương tục không đoạn, cũng cần phải hòa hợp cùng phiền não.

Sao gọi la thiện căn tương tục hợp cùng phiền não ở trong luân hồi?

Nghĩa là siêng cầu phước hạnh mà không biết chán đủ. Bồ Tát tư duy như vậy rồi nên hiện thọ sinh ở trong ba cõi, nguyện gặp Chư Phật, thệ độ chúng sinh, hộ trì chánh pháp mà không hề giãi đãi. Các chỗ hành dụng luôn dũng mãnh, không hề thoái chuyển, thường muốn cầu pháp, vĩnh viễn không xả bỏ thắng hạnh Ba la mật đa.

Này Hải Ý! Đó gọi là thiện căn tương tục hợp cùng phiền não ở trong luân hồi. Bồ Tát tuy ở trong ấy hòa hợp cùng phiền não nhưng không bị phiền não làm cho cấu nhiễm.

Bồ Tát Hải Ý bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay nói về thiện căn, nhưng vì duyên cớ gì mà nói về phiền não?

Phật nói: Này Hải Ý! Bồ Tát biết rõ các pháp phiền não như vậy hợp cùng ba cõi, từ trong phiền não mà xuất sinh ra ba cõi. Nhưng vì Bồ Tát ấy đầy đủ phương tiện thiện xảo, nương theo sức tích tập các thiện căn mà hợp cùng ba cõi. Đó gọi là thiện căn hợp cùng phiền não các cõi. Vì hợp cùng ba cõi nên tâm không sinh các tùy phiền não.

Này Hải Ý! Ví như trong thế gian có một đại Trưởng Giả, chỉ có một người nên ông ta luôn yêu quý nuôi dưỡng, trong lòng luôn thương mến. Lúc ấy, đứa bé vì dại khờ thiếu hiểu biết nên chơi đùa cạnh một bên cái giếng hoang, vì nhỏ dại nên bỗng rơi xuống giếng.

Lúc đó, mẹ và thân tộc thấy đứa bé rơi xuống giếng nên đứng trước giếng sâu không thể lường ấy mà sầu não, không thể tìm cách leo xuống giếng ấy. Tuy họ thương xót, đau buồn về đứa con nhưng không thể cứu nó được.

Lúc người cha biết liền tức tốc chạy đến, thấy đứa con mình rơi xuống giếng sâu nên lòng sầu não, thương xót dâng tràn. Vì quá thương con, không thể xa lìa nên liền tìm cách leo xuống giếng, nhờ khéo tìm cách xuống giếng nên cứu được đứa con ra khỏi.

Này Hải Ý! Nên biết, cái giếng hoang ấy tức là ba cõi, người con ấy tức là tất cả chúng sinh. Bồ Tát xem tất cả chúng sinh như con một của mình, mẹ và thân tộc của đứa con ấy tức là Thanh Văn, thừa Duyên Giác. Họ tuy thấy tất cả chúng sinh rơi vào luân hồi, tâm luôn đau buồn nhưng không có phương tiện để cứu vớt. Vị trưởng giả ấy tức là Bồ Tát. Các Bồ Tát tuy dùng tâm trong suốt, thanh tịnh vô cấu, trú pháp vô vi nhưng lại tu hành hòa hợp cùng ba cõi, hóa độ chúng sinh.

Này Hải Ý! Đó là Bồ Tát hành đại bi. Bồ Tát đã tự có thể giải thoát các ràng buộc rồi nhưng lại ở trong ba cõi thị hiện thọ sinh, đầy đủ sự thu giữ của thắng tuệ và phương tiện thiện xảo. Phiền não của chúng sinh không còn ngăn ngại mà lại có thể vì tất cả chúng sinh giảng nói pháp đoạn trừ sự ràng buộc của phiền não.

Bồ Tát Hải Ý bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chư Bồ Tát có thể làm việc khó làm, có thể dùng tâm thanh tịnh, tinh khiết, không cấu nhiễm, ở trong luân hồi không sinh lòng chán bỏ. Như chỗ thuyết về pháp thâm diệu mà quán sát đúng như lý, không trú vô vi, không cầu quả chứng.

Phật nói: Này Hải Ý! Chỗ tu tập hành đạo của Bồ Tát này hợp với thiền chi, nghĩa là bát nhã Ba la mật đa cùng với phương tiện thiện xảo.

Hải Ý nên biết! Nếu tâm Bồ Tát thanh tịnh, trong lặng, không cấu nhiễm thì đó chính là bát nhã Ba la mật đa. Ở nơi luân hồi mà không sinh tâm chán bỏ, thị hiện thọ sinh, hóa độ chúng sinh, đó tức là phương tiện thiện xảo.

Này Hải Ý! Nếu chư Bồ Tát ở nơi tất cả pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sinh, vô khởi, quán sát như lý, đó tức là bát nhã Ba la mật đa. Nếu lại phát tâm đại bi hiện tiền, không trú vô vi, không cầu quả chứng, đó chính là phương tiện thiện xảo.

Này Hải Ý! Nếu chư Bồ Tát khéo tu pháp bình đẳng ba đời thì không hề thấy mot pháp nào có tướng. Nếu pháp giới ấy bình đẳng thì chúng sinh giới bình đẳng. Nếu chúng sinh giới bình đẳng tức Niết Bàn giới bình đẳng.

Nếu Niết Bàn giới bình đẳng tức pháp giới bình đẳng. Nếu có thể nhập nơi tánh của pháp giới bình đẳng thì chỗ nhập ấy tức là bát nhã Ba la mật đa. Nếu có thể nhập một pháp giới, biết rõ chúng sinh giới, không chứng Niết Bàn giới cho nên không bỏ chúng sinh giới, không trú nơi pháp giới, không thủ đắc quả chứng, đó là phương tiện thiện xảo.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần