Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Ba - Phẩm Ngũ Vương - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẨM BA MƯƠI BA
PHẨM NGŨ VƯƠNG
PHẦN BA
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có năm loại trượng phu mạnh mẽ, có thể chiến đấu, xuất hiện ở đời.
Thế nào là năm?
Ở đây, có người mặc giáp, cầm gậy vào trận chiến đấu, từ xa thấy gió bụi liền sợ hãi. Ðó là người chiến đấu thứ nhất. Lại nữa, hạng chiến đấu thứ hai, mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận chiến. Thấy gió bụi không sợ hãi nhưng thấy cờ xí liền ôm lòng sợ hãi, không thể tiến đánh. Ðó là người thứ hai.
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ ba, mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận chiến đấu. Thấy gió bụi hay cờ xí không sợ hãi nhưng thấy cung tên liền sợ hãi, chẳng thể chiến đấu. Ðó là người thứ ba.
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ tư, mặc giáp, cầm gậy vào trận đánh nhau. Thấy gió bụi hay cờ xí hoặc cung tên chẳng sợ hãi, nhưng lúc vào trận bị người khác bắt hoặc giết chết. Ðó là người thứ tư.
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ năm, mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận đánh. Thấy gió bụi, cờ xí hoặc thấy cung tên, hoặc bị người khác bắt, cho đến chết không sợ hãi, có thể đánh tan quân địch trong ngoài mà thống lãnh nhân dân. Ðó là người thứ năm.
Như thế Tỳ Kheo! Thế gian có năm loại người này. Nay trong chúng Tỳ Kheo cũng có năm loại người này xuất hiện ở đời.
Thế nào là năm?
Hoặc có Tỳ Kheo dạo trong thôn xóm người. Ông ta nghe trong thôn có phụ nữ đoan chánh vô song, mặt như màu hoa đào. Ông ta nghe xong, đến giờ đắp y ôm bát vào thôn khất thực, gặp cô gái nhan sắc vô song này liền khởi dục tưởng rồi bỏ ba y, trả lại cấm giới của Phật, làm cư sĩ.
Ví như người chiến đấu nọ, thấy gió bụi đã sợ hãi. Tỳ Kheo này cũng vậy. Lại nữa, có Tỳ Kheo nghe có cô gái ở trong thôn xóm đoan chánh vô song, đến giờ đắp y, ôm bát vào thôn khất thực, nếu gặp nữ nhân không khởi dục.
Nhưng nếu cùng cô gái ấy đùa cợt, chuyện trò thì do sự đùa cợt này, ông ta liền bỏ pháp phục trở về làm cư sĩ. Như người thứ hai kia, thấy gió bụi không sợ, nhưng thấy cờ xí liền ôm lòng sợ hãi. Tỳ Kheo này cũng vậy.
Lại nữa, có Tỳ Kheo nghe trong thôn xóm có cô gái dung mạo đoan chánh hiếm có ở đời, như màu hoa đào. Ông ta đến giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, nếu thấy cô gái, chẳng khởi dục tưởng, dù cùng cô gái trò chuyện cũng không khởi ý dục.
Nhưng cùng cô gái kia nắm tay, chạm nhau hoặc cùng nắm kéo, trong đó khởi dục tưởng, ông ta bỏ ba pháp y, trở lại làm cư sĩ, tập tành gia nghiệp. Như người thứ ba, lúc vào trận thấy gió bụi, thấy cờ xí không sợ hãi. Thấy cung tên liền ôm lòng lo sợ.
Lại nữa, có Tỳ Kheo nghe trong thôn xóm có cô gái mặt mũi đoan thế gian ít có. Ðến giờ, đắp y, ôm bát vào xóm khất thực.
Nếu ông ta thấy cô gái thì cũng chẳng khởi dục tưởng, dù cùng nói chuyện cũng không khởi dục tưởng, nếu cùng cô gái nắm kéo liền khởi dục tưởng, nhưng không bỏ pháp phục mà học tập gia nghiệp.
Như người thứ tư vào trận bị người bắt hoặc đoạt mạng sống, không thể ra khỏi. Lại nữa, có Tỳ Kheo ở trong thôn xóm, ông ta nghe trong thôn có cô gái.
Ðến giờ, ông đắp y, ôm bát vào làng khất thực. Nếu ông ta thấy cô gái, chẳng khởi dục tưởng, dù cùng nói cười cũng không khởi dục tưởng, dù cùng nắm kéo cũng không khởi dục tưởng.
Bấy giờ Tỳ Kheo quán ba mươi sáu thứ trong thân này dơ xấu chẳng sạch:
Ai dính mắc vào đây?
Do đâu mà khởi dục?
Dục này ngừng ở đâu?
Từ đầu chăng?
Từ thân thể ra chăng?
Quán các vật này trọn không có gì cả. Từ đầu tới chân cũng lại như thế. Những vật thuộc ngũ tạng không có tưởng tượng cũng không chỗ đến.
Ông ta quán nguyên nhân chẳng biết từ đâu tới!
Ông lại nghĩ: Ta quán dục này từ nhân duyên sanh. Tỳ Kheo ấy quán như thế rồi, tâm dục lậu hết, được giải thoát, tâm hữu lậu được giải thoát, tâm vô minh lậu được giải thoát, liền được trí giải thoát.
Sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn tái sanh nữa, như thật mà biết. Như người chiến đấu thứ năm kia, không sợ bị nạn bởi quân địch mà tự du hóa. Do đó nên nay ta nói người này xả bỏ ái dục, vào chỗ vô úy, được đến thành Niết Bàn. Ðó là, này Tỳ Kheo, có năm loại người xuất hiện ở đời.
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:
Dục, ta biết gốc ngươi,
Ý do tư tưởng sanh,
Tư tưởng ta chẳng sanh,
Thì ngươi không có được.
Như thế, các Tỳ Kheo!
Hãy quán uế ác, dâm là hạnh bất tịnh, hãy trừ bỏ sắc dục!
Như thế, các Tỳ Kheo, hãy học điều này.
Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có năm hạng người chiến đấu xuất hiện ở đời.
Thế nào là năm?
Hoặc có người mặc giáp, cầm gậy vào trận chiến đấu. Ông ta thấy gió bụi liền lo sợ chẳng dám vào trong trận lớn kia. Ðó là hạng người thứ nhất.
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ hai, mặc giáp cầm gậy vào trận chiến đấu. Ông ta thấy gió bụi không sợ hãi, nhưng nghe tiếng trống đánh liền kinh sợ. Ðó là hạng người thứ hai.
Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ ba mặc giáp cầm gậy vào quân chiến đấu. Ông ta thấy gió bụi không sanh sợ hãi, nếu nghe tiếng trống, tù và cũng không lo sợ. Ông ta nếu thấy cờ xí liền sợ hãi, chẳng kham chiến đấu. Ðó là người thứ ba.
Lại nữa, người chiến đấu thứ tư mặc giáp, cầm gậy vào trong quân chiến đấu. Nếu ông ta thấy gió bụi không sanh sợ hãi, nếu nghe tiếng trống, tù và cũng chẳng sợ sệt, nếu thấy cờ xí cũng không kinh sợ. Nhưng ông ta có thể bị người bắt và giết chết. Ðó là người thứ tư.
Lại nữa, thứ năm, có người mặc giáp cầm gậy vào trận cùng chiến đấu. Ông ta có thể nhẫn chịu, chẳng sợ khó khăn, có thể đánh bại quân địch, mở rộng bờ cõi. Ðó là người thứ năm xuất hiện ở đời.
Tỳ Kheo nên biết! Nay Tỳ Kheo cũng có năm loại người xuất hiện ở đời.
Thế nào là năm?
Hoặc có Tỳ Kheo ở trong thôn xóm. Người ấy nghe có nữ nhân đoan chánh vô song, như màu hoa đào. Tỳ Kheo ấy đến giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, không giữ gìn các căn, chẳng hộ trì pháp thân, miệng, ý.
Ông ta nếu thấy nữ nhân liền khởi dục ý, lại bỏ cấm giới, tập pháp cư sĩ. Như người đầu tiên kia, nghe tiếng gió bụi nổi lên, chẳng kham chiến đấu, sanh lòng sợ hãi, do đây nên ta nói người này.
Lại nữa, có Tỳ Kheo trụ ở thôn xóm. Ông ta nghe trong thôn có nữ nhân đoan chánh vô song, mặt như màu hoa đào, liền bỏ cấm giới, học tập pháp cư sĩ. Như người chiến đấu thứ hai kia, chỉ nghe tiếng trống, tù và mà chẳng kham chiến đấu, đây cũng vậy.
Lại nữa, có Tỳ Kheo trụ ở thôn xóm, nghe có nữ nhân ở thôn xóm kia. Ông ta nghe rồi liền khởi dục ý. Nếu thấy nữ nhân, ông ta không khởi dục tưởng, chỉ khi cùng nữ nhân đùa cợt, nơi đó bỏ cấm giới, tập tành pháp cư sĩ.
Như người thứ ba kia, xa trông thấy cờ xí liền sợ hãi, chẳng kham chiến đấu, do đây nên ta nói người này. Ðó là người chiến đấu thứ ba.
Lại nữa, có Tỳ Kheo ở trong thôn xóm. Tỳ Kheo ấy nghe trong thôn có nữ nhân. Nghe rồi đắp y, ôm bát vào làng khất thực, chẳng giữ gìn thân, miệng, ý.
Ông ta thấy nữ nhân đoan chánh vô song, nơi đó liền khởi dục ý, hoặc cùng nữ nhân kéo níu, hoặc nắm tay, liền bỏ cấm giới, về làm cư sĩ.
Như người chiến đấu thứ tư kia, ở trong đại quân bị người bắt, mất mạng. Do đó nên nay ta nói người này.
Lại nữa, có Tỳ Kheo nghe trong thôn xóm có nữ nhân hiếm có ở đời. Ông ta tuy nghe như thế mà không khởi dục tưởng. Tỳ Kheo ấy đến giờ đắp y, ôm bát vào làng khất thực, thủ hộ thân, miệng, ý.
Ông ta tuy thấy nữ nhân, không khởi dục tưởng, không có niệm tà, dù có cùng nữ nhân trò chuyện cũng chẳng khởi dục tưởng, cũng không niệm tà.
Nếu cùng nữ nhân níu kéo nắm tay, lúc ấy ông ta liền khởi dục tưởng, thân, miệng, ý liền lừng lẫy.
Dục ý đã lừng lẫy, trở về lại vườn, đến chỗ Tỳ Kheo Trưởng Lão, đem nhân duyên này nói với Tỳ Kheo Trưởng Lão: Chư Hiền nên biết! Nay tôi dục ý lừng lẫy chẳng thể tự kềm chế. Cúi mong chư hiền thuyết pháp khiến tôi thoát khỏi sự nhơ nhớp bất tịnh của dục.
Bấy giờ Trưởng Lão Tỳ Kheo bảo: Nay ông nên quán dục này từ đâu sanh?
Rồi từ đâu diệt?
Như Lai nói: Phàm người trừ dục nên dùng quán bất tịnh để trừ và tu hành đạo quán bất tịnh.
Tỳ Kheo Trưởng Lão bèn nói kệ:
Nếu biết tự điên đảo,
Làm tâm thêm lừng lẫy,
Nên trừ các thức tâm,
Dục ý liền thôi dứt.
Chư Hiền nên biết: Dục từ tưởng sanh, vì dấy tưởng niệm liền sanh dục ý, có thể hại mình, lại hại người khác, khởi bao nhiêu tai nạn biến đổi. Ở trong hiện tại nhận khổ hoạn này. Lại ở đời sau thọ khổ vô lượng.
Dục ý đã trừ, chẳng tự hại mình, cũng chẳng hại người khác, ở quả báo hiện tại chẳng chịu khổ này. Thế nên, nay hãy trừ tưởng niệm. Do không tưởng niệm liền không tâm dục, đã không tâm dục liền không loạn tưởng.
Bấy giờ Tỳ Kheo kia nhận lời dạy dỗ như thế. Liền tư duy tưởng bất tịnh. Do tư duy tưởng bất tịnh, lúc ấy tâm hữu lậu được giải thoát đến chỗ vô vi, như người thứ năm kia mặc giáp, cầm gậy vào trận chiến đấu. Ông ta thấy địch không hề sợ hãi.
Nếu có người đến hại, tâm ông ta không di động. Có thể phá dẹp giặc cướp bên ngoài, vào trong đất nước người khác.
Do vậy, nên nay ta nói người này có thể phá chúng ma, trừ các loạn tưởng, đến chỗ vô vi. Ðó là người thứ năm xuất hiện ở đời.
Tỳ Kheo nên biết! Thế gian có năm loại người này xuất hiện ở đời.
Thế nên, các Tỳ Kheo! Hãy nhớ tu hành, dục là tưởng bất tịnh.
Như thế các Tỳ Kheo! Hãy học điều này!
Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Phàm người quét đất thì có năm việc chẳng được công đức.
Thế nào là năm?
Ở đây, người quét đất chẳng biết ngược gió, chẳng biết thuận gió, lại chẳng gom nhóm, chẳng trừ phần, chỗ đất quét lại chẳng sạch sẽ.
Ðó là, này Tỳ Kheo! Người quét đất có năm việc chẳng được công đức lớn.
Lại nữa, này Tỳ Kheo! Người quét đất thành tựu năm công đức.
Thế nào là năm?
Ở đây, người quét đất biết lý thuận gió, ngược gió, cũng biết gom nhóm, cũng có thể trừ bỏ chẳng để dư sót, khiến đất hết sức sạch sẽ, tốt đẹp.
Ðó là, Tỳ Kheo! Có năm việc này thành tựu công đức lớn.
Thế nên, các Tỳ Kheo! Nên trừ năm việc trước, tu năm pháp sau. Như thế, các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Phàm người quét Tháp thì có năm việc chẳng được công đức.
Thế nào là năm?
Ở đây, có người quét Tháp chẳng lấy nước rưới đất, chẳng trừ bỏ ngói đá, chẳng sửa đất cho bằng phẳng, chẳng quét đất nghiêm chính, chẳng trừ bỏ nhơ nhớp.
Ðó là, này Tỳ Kheo! Người quét Tháp chẳng thành tựu năm công đức.
Tỳ Kheo nên biết! Người quét Tháp thành tựu năm công đức.
Thế nào là năm?
Ở đây người quét Tháp lấy nước rưới đất, trừ bỏ ngói đá, san bằng đất đai, quét đất nghiêm trang, trừ bỏ nhơ nhớp.
Ðó là này Tỳ Kheo! Có năm việc khiến người quét Tháp được công đức.
Thế nên, các Tỳ Kheo! Muốn cầu công đức, nên hành năm việc này. Như thế, các Tỳ Kheo nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Người du hành nhiều có năm gian nan.
Thế nào là năm?
Ở đây, người thường du hành không tụng giáo pháp, quên mất giáo pháp đọc tụng, chẳng định được ý, đã được Tam Muội lại quên mất, nghe pháp không thể giữ gìn.
Ðó là, này Tỳ Kheo! Người du hành nhiều có năm việc khó này.
Tỳ Kheo nên biết!
Người không du hành nhiều có năm công đức.
Thế nào là năm?
Pháp chưa từng đắc sẽ được đắc pháp, được rồi chẳng quên nữa, nghe nhiều có thể gìn giữ, hay được định ý, đã được Tam Muội không bị mất nữa.
Ðó là, này Tỳ Kheo! Người không du hành nhiều có năm công đức này.
Thế nên, các Tỳ Kheo! Chớ nên du hành nhiều. Như thế, các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Nếu có Tỳ Kheo ở hoài một chỗ, sẽ có năm điều phi pháp.
Thế nào là năm?
Ở đây, Tỳ Kheo ở một chỗ, ý sẽ dính mắc vào nhà cửa sợ người khác chiếm đoạt. Hoặc ý đắm mến tài sản lại sợ người đoạt, hoặc chứa nhiều vật giống như người đời. Tham mến người thân, không muốn cho người khác đến nhà người mình thân. Thường cùng cư sĩ qua lại.
Ðó là, này Tỳ Kheo! Người ở một chỗ có năm điều phi pháp này.
Thế nên, các Tỳ Kheo! Nên cầu phương tiện, chớ trụ một chỗ. Như thế, các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Người không ở một chỗ có năm công đức.
Thế nào là năm?
Không tham nhà cửa, không tham đồ vật, không chứa nhiều tài vật, chẳng dính mắc thân tộc, chẳng cùng cư sĩ qua lại giao thiệp.
Ðó là, này Tỳ Kheo! Người không trụ một chỗ có năm công đức này.
Thế nên, các Tỳ Kheo! Hãy cầu phương tiện hành năm việc này. Như thế, các Tỳ Kheo, hãy học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Ma Kiệt, bên hồ Quang Minh. Bấy giờ Thế Tôn cùng với đại chúng Tỳ Kheo năm trăm người, đi du hóa trong nhân gian. Khi ấy, Thế Tôn thấy một cây lớn bị lửa đốt cháy. Thấy rồi, Như Lai đến ngồi dưới một gốc cây.
Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Thà đem thân nhảy vào lửa này hay thà cùng nữ nhân đoan chánh giao thiệp?
Các Tỳ Kheo bạch Phật: Thà cùng nữ nhân giao thiệp chứ chẳng nên nhảy vào lửa này.
Vì sao thế?
Lửa này nóng độc không thể tính kể, nó chấm dứt mạng sống của mình, chịu khổ vô lượng.
Thế Tôn bảo:
Nay ta bảo cho các thầy: Chẳng phải hạnh Sa Môn mà nói là Sa Môn, chẳng phải người phạm hạnh mà nói là phạm hạnh, chẳng nghe chánh pháp mà nói ta nghe pháp, không có pháp thanh bạch. Người như thế, thà nhảy vào lửa này chứ chẳng cùng nữ nhân giao thiệp.
Vì sao?
Thà chịu đau khổ này, chứ chẳng vì tội này khiến vào trong địa ngục, chịu khổ vô lượng.
Thế nào Tỳ Kheo! Nên chịu người lễ bái cúng kính hay thà khiến người đem kiếm bén chặt tay chân?
Các Tỳ Kheo đáp: Thà chịu cung kính lễ bái, chẳng cho người lấy kiếm chặt chân tay.
Vì sao?
Chặt tay chân, đau đớn không kể nổi.
Thế Tôn bảo:
Nay ta bảo các thầy: Chẳng phải hạnh Sa Môn mà xưng là Sa Môn, chẳng phải người phạm hạnh mà nói là phạm hạnh, chẳng nghe chánh pháp mà nói rằng nghe chánh pháp, không hạnh thanh bạch, dứt hết gốc lành. Người như thế, thà gieo mình chịu kiếm bén này chứ không để không giới mà nhận người cung kính.
Vì sao thế?
Cái đau này chỉ trong khoảnh khắc, còn đau khổ ở địa ngục không thể tính kể.
Thế nào Tỳ Kheo! Thà nhận y phục của người hay thà lấy mảnh sắt nóng quấn quanh mình?
Các Tỳ Kheo đáp: Thà nhận y phục của người chứ chẳng chịu sự thống khổ này.
Vì sao thế?
Ðiều này độc hại, đau khổ không thể tính kể.
Thế Tôn bảo:
Nay ta lập lại một lần nữa cho các thầy biết: Người không giới hạnh, thà lấy mảnh sắt nóng quấn vào mình, chớ chẳng nên nhận y phục của người. Sở dĩ như thế vì sự thống khổ này chỉ trong chốc lát, còn đau khổ trong địa ngục thì không thể tính kể.
Thế nào, Tỳ Kheo! Thà nhận thức ăn của tín thí hay thà nuốt hoàn sắt nóng?
Các Tỳ Kheo đáp: Thà nhận thức ăn của tín thí, chứ không thể nuốt hoàn sắt nóng. Sở dĩ như thế vì sự đau đớn này không có chỗ kham nổi.
Thế Tôn bảo:
Nay ta bảo các thầy: Thà nuốt hoàn sắt nóng chứ chẳng nên không có giới hạnh mà nhận người cúng dường.
Vì sao thế?
Vì nuốt hoàn sắt nóng chỉ đau khổ trong chốc lát, chứ chẳng nên không giới hạnh thọ người tín thí.
Thế nào Tỳ Kheo! Thà nhận giường chõng của người hay thà nằm trên giường sắt nóng?
Các Tỳ Kheo đáp: Bạch Thế Tôn! Chúng con thà nhận giường chõng của người, chứ không nằm trên giường sắt nóng. Sở dĩ thế vì điều này rất độc hại, đau đớn không thể tính kể.
Thế Tôn bảo: Người ngu si kia không có giới hạnh, chẳng phải Sa Môn mà nói là Sa Môn, không có phạm hạnh nói tu phạm hạnh thì thà nằm trên giường sắt nóng, chẳng đem không có giới hạnh mà thọ người tín thí. Sở dĩ như thế vì nằm trên giường sắt nóng chịu khổ chốc lát, không do vô giới mà thọ người tín thí.
Tỳ Kheo nên biết! Hôm nay ta xem chỗ hướng đến của người không giới hạnh. Nếu người ấy ở nhân gian thì hình hài khô héo, hộc máu mà chết. Không cùng nữ nhân giao du, không có đức nhận người kính lễ, không nhận được y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc men của người.
Vì người vô giới này chẳng xem tội đời trước, đời sau, chẳng đoái hoài đến mạng căn nên phải chịu sự đau khổ này. Người không giới hạnh sẽ sanh trong ba đường ác.
Vì sao thế?
Vì tạo hạnh ác nên bị đưa đến đây. Hôm nay Như Lai quán sát chỗ thú hướng của người làm lành, ngay cho dù người ấy trúng độc hay bị thương bởi đao kiếm, tự cắt đứt tính mạng.
Vì cớ sao?
Muốn bỏ thân này, hưởng phước Cõi Trời, sẽ sanh vào cõi lành, do chịu quả báo đời trước khiến hạnh lành đưa đến.
Thế nên, Tỳ Kheo! Nên nhớ tu hành giới thân, định thân, tuệ thân, giải thoát thân, giải thoát tri kiến thân. Muốn khiến đời này được quả báo, được đạo Cam Lộ thì dù cho có nhận y phục, thức ăn uống, giường chõng, thuốc men cũng không lầm lỗi, lại khiến Đàn Việt được phước vô cùng.
Như thế, các Tỳ Kheo! Hãy học điều này.
Lúc Phật thuyết pháp này, sáu mươi Tỳ Kheo được lậu tận, ý giải, sáu mươi vị bỏ pháp phục trở về làm cư sĩ. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Năm Vua và Nguyệt Quang,
Thi Bà Hai chiến đấu,
Hai quét hai hành pháp,
Ði ở có hai loại,
Cây khô ở sau cùng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Xâm Bức
Phật Thuyết Kinh Thiền đạt Ma đa La - Phần Mười Bảy - Tu Hành Quán Mười Hai Nhân Duyên
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Thứ Mười Một - Pháp Hội Xuất Hiện Quang Minh - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Mười Hai - Kinh Vua Ba Da
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Bảy - Phẩm Trì Giới Ba La Mật đa - Tập Năm