Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA MẬT NGHIÊM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Địa Bà Ha La, Đời Đường
PHẨM TÁM
PHẨM A LẠI DA VI MẬT
TẬP BỐN
Lúc đầu ở thai tạng
Sắc sinh thường hoại diệt
Lìa không chẳng có sắc
Lìa sắc chẳng có không
Như trăng cùng ánh sáng
Trước sau thường không khác
Các pháp cũng như vậy
Tánh không vẫn đồng nhất
Lưu chuyển không khác nhau
Chỗ làm được thành tựu
Thân này như tử thi
Xưa nay không tự tánh
Luôn bị ái ràng buộc
Bị cảnh động dẫn dắt
Phật thuyết giảng lý không
Vì muốn đoạn các kiến
Các ông người có trí
Phải nên nhất tâm học
Ví như nhà huyễn thuật
Dùng lực các chú thuật
Cỏ cây và các duyên
Tùy ý tạo các vật
Nương theo mắt và ái
Ý theo sắc, ánh sáng
Như vậy, nhãn thức sinh
Như huyễn, như sóng nắng
Thức này không chỗ đến
Cũng không có chỗ đi
Tánh các thức như vậy
Không nên chấp có, không
Như Thạch Nữ có con
Như sừng thỏ, lông rùa
Xưa nay không có tánh
Vọng lập nên tên gọi
Loài sư, tử, gấu, bi
Đều là không có sừng
Vì sao chẳng phân biệt
Chỉ bảo thỏ không sừng
Người đàm luận khéo léo
Sao không thể tuyên thuyết
Những bậc trí đời trước
Chỉ nói thỏ không sừng
Người mê vọng phân biệt
Như câm và điếc mù
Người này không có trí
Không thể tự chứng pháp.
Chỉ theo lời khác chuyển
Đâu cần phải phân biệt
Nếu xa lìa phân biệt
Nên sinh cõi mật nghiêm
Trong chánh định nhất tâm
Hiện khắp mười phương cõi
Ví như cung điện trời
Các sao và mặt trăng
Nương ở núi Tu Di
Nhờ sức gió chuyển động
Bảy thức cũng vậy
Nương vào A lại da
Giữ gìn các tập khí
Mỗi mỗi thường lưu chuyển
Ví như nương nơi đất
Sinh trưởng tất cả vật
Tất cả loài hữu tình
Cho đến những ngọc quý
Tạng thức cũng như vậy
Chỗ nương của các thức
Ví như con chim công
Lông cánh nhiều màu sắc
Trống, mái ưa thích nhau
Cùng vui vẻ náo nức
Người định quán lại da
Nên biết cũng như vậy
Chủng tử và các pháp
Cùng lần lượt nương nhau
Ví như trăm dòng sông
Ngày đêm chảy ra biển
Dòng sông vẫn không cạn
Biển thì cũng chẳng khác
Tạng thức cũng như vậy
Thâm sâu không có bờ
Tập khí của các thức
Ngày đêm thường lưu chuyển
Như đất có nhiều báu
Và các loài vật khác
Ban cho các chúng sinh
Tùy theo người lấy dùng
Tạng thức cũng như vậy
Cùng khởi các phân biệt
Tăng trưởng ở sinh tử
Chuyển y thành Chánh Giác
Hành thiện, hành thanh tịnh
Ra khỏi cả mười địa
Vào trong địa Như Lai
Mười lực đều viên mãn
Chánh trụ nơi thực tế
Thường hằng không ngoại diệt
Như đất không phân biệt
Ứng hóa không tận cùng
Như mùa xuân hoa nở
Chim, người đều vui thích
Thức chấp trì cũng vậy
Người định nhiều mê chấp
Như vậy các Phật Tử
Không tuệ lìa chân thật
Không hoàn toàn biết nghĩa
Vọng nói sinh quyết định
Lời phi pháp, lý gian
Mê hoặc các chúng sinh
Trụ ở các pháp khác
Sinh lời nói khác nhau
Ví như nhà huyễn thuật
Khéo dùng các chú thuật
Ở chỗ không hoa quả
Hiện đủ thứ hoa quả
Trí phương tiện thiện xảo
Phật, Bồ Tát cũng vậy
Trụ thế gian khác nhau
Mà an lập riêng biệt
Thuyết vô số pháp môn
Dẫn dắt không cùng tận
Pháp chân thật quyết định
Trong mật nghiêm hiện rõ
Sáu giới và mười tám
Mười hai xứ thù thắng
Dây ý bị dẫn dắt
Nên chúng sinh lưu chuyển
Tám thức các giới, xứ
Cùng hòa hợp sinh khởi
Thân trước và thân sau
Từ nơi ý mà chuyển
Phật thuyết tạng thức này
Nhân biến thiên lưu chuyển
Sinh ra tất cả thân
Liên tục không đoạn dứt.
Lúc Bồ Tát Kim Cang Tạng thuyết về nghĩa tối thắng của các giới, xứ rồi, các Đại Bồ Tát ở trong cung điện Ma ni bảo tạng thanh tịnh được sự không sợ hãi liền đến trước đảnh lễ.
Lại có vô lượng Chư Phật, Bồ Tát từ cõi nước đến đồng tán thán: Lành thay! Lành thay!
Trong chúng lại có vô lượng Bồ Tát, Chư Thiên và các Thiên Nữ đều đứng dậy chắp tay cùng nhau chiêm ngưỡng và nói kệ:
Trong tất cả người định
Nhân Giả là Thượng Thủ
Nay vì các Bồ Tát
Thuyết pháp diệu tối thắng
Xa lìa các ngoại đạo
Và các luận chấp ngã
Nhân giả đã chỉ rõ
Sáu giới tịnh tối thắng
Chỉ các giới hợp lại
Theo nhân để duy chuyển
Ví như trong hư không
Có dấu chim hiện rõ
Cũng như lìa nơi cây
Lửa được cháy hừng hực
Dấu chim hiện trong không
Lìa cây mà có lửa
Ta và các thế gian
Chưa từng thấy việc này
Chim bay nhờ lông cánh
Không có vết trong không
Nhân giả thuyết tối thắng
Cùng giống tướng dấu chim
Vì sao nơi các cõi
Có được nghĩa luân hồi
Mà thuyết giới tối thắng
Thường lưu chuyển sinh tử
Thọ các quả khổ vui
Nghiệp đã tạo không mất
Như nông phu trồng trọt
Chưa từng gặt được quả
Thân người cũng như vậy
Trú thân tu hạnh lành
Đời nay và đời sau
Hưởng quả vui trời, người
Hoặc thường tu phước đức
Tích tập nhân làm Phật
Trí tuệ và giải thoát
Mau thành Bậc Chánh Giác
Sinh Cõi Trời Tự Tại
Quán hành thấy nghĩa thật
Nếu lìa cõi tối thắng
Tất cả đều không có
Bậc trượng phu lưu chuyển
Ở trong chốn sinh tử
Dưới từ ngục A tỳ
Trên đến các Cõi Trời
Nghiệp này phải chịu quả
Sự tạo tác không mất
Hoặc trong ngoài thế gian
Hỗ tương mà sinh khởi
Pháp này giống pháp kia
Pháp kia từ đây sinh
Tuy lìa cõi tối thắng
Làm người cõi luân hồi
Như nói con Thạch Nữ
Uy nghi đi tới lui
Thỏ có sừng bén nhọn
Trong cát sinh ra dầu.
Lúc ấy, các Bồ Tát, Chư Thiên và Thiên Nữ nói lời này rồi, cùng nhau cúng dường Bồ Tát Kim Cang Tạng và các Bồ Tát.
Cúng dường xong, họ lại đồng tâm mà nói kệ:
Pháp nhãn đủ không khuyết
Nhân, dụ đều trang nghiêm
Bao gồm luận thuyết khác
Tự hiển bày công đức.
Nên bậc đại tinh tấn
Ứng hợp mau khai diễn
Trời, người trong hội này
Đều nhất tâm lắng nghe.
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng dùng kệ đáp:
Pháp này sâu khó bàn
Không thể phân biệt được
Lý quán hành thanh tịnh
Nhân, dụ đã mở bày.
Ta ở cõi mật nghiêm
Tu định rồi tuyên thuyết
Hàng trời, người các ông
Nên nhất tâm lắng nghe.
Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng nói lời này rồi, hướng về đại thọ Khẩn Na La Vương nói kệ:
Đại Thọ Khẩn Na La
Ông nên biết pháp tánh
Các pháp làm sao trụ
Tánh không không thật có.
Thấy tương ưng như vậy
Thiền định không mê hoặc
Như ăn một hạt cơm
Có thể biết hạt khác.
Các pháp cũng như vậy
Biết một tức biết nhiều
Như váng sữa đông lại
Dùng đầu lóng tay biết.
Các pháp tánh như vậy
Đem một pháp quán sát
Pháp tánh chẳng phải có
Cũng chẳng phải là không.
Biến đổi của tạng thức
Lấy tạng không làm tướng.
Lúc ấy, Đại Thọ Khẩn Na La Vương nói kệ:
Vì sao trong tâm lượng
Mà có cõi và người
Vì sao sinh các cõi
Cứng ướt và nóng động.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Tán Thán Phật định Quang
Phật Thuyết Kinh Pháp Thừa Nghĩa Quyết định - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Ba - Phẩm Người - Phần Chín - Mù Lòa
Phật Thuyết Kinh Huyễn Sĩ Nhân Hiền - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phương đẳng Bát Nê Hoàn - Phẩm Chín - Phẩm Như Lai Hóa Thuyết Pháp
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thế Ký - Phẩm Mười Hai - Thế Bổn Duyên
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Tám - Phẩm Hiện Bệnh