Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Một - Chuyện Vương Tử Què Câm Tiền Thân Mùga Pakka - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM MỘT
ĐẠI PHẨM
CHUYỆN VƯƠNG TỬ QUÈ CÂM
TIỀN THÂN MÙGA PAKKA
PHẦN MỘT
Con ơi đừng lộ trí thông minh. Chuyện này bậc Ðạo Sư kể tại Jetavana Kỳ Viên về đại sự xuất thế của Ngài. Một ngày nọ, các Tỳ Kheo ngồi tại chánh pháp đường tán thán công hạnh xuất gia cao cả của Đức Thế Tôn.
Khi Đức Thế Tôn đến hỏi các Tỳ Kheo đang ngồi bàn luận đề tài gì, và khi được biết đề tài ấy, Ngài bảo: Không đâu, này các Tỳ Kheo, việc xuất thế của ta ngày nay, sau khi từ bỏ ngai vàng, không có gì kỳ diệu, khi ta đã thành tựu đầy đủ Thập Ba La Mật Mười Hạnh Viên mãn của Bồ Tát. Vì trước kia, ngay khi trí ta chưa thành tựu và ta đang tinh tấn đạt đến các hạnh viên mãn, ta đã rời bỏ ngai vàng và xuất thế.
Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỳ Kheo, Ngài kể một câu chuyện quá khứ. Ngày xưa có một vị Vua tên là Kàsiràja trị vì Quốc Độ rất đúng Pháp tại Ba La Nại.
Ngài có mười sáu ngàn phi tần, nhưng không bà nào có con cả.
Quần Thần họp lại như trong Tiền Thân Kusa bảo nhau: Chúa Thượng không có con trai nối dõi. Rồi họ xin Nhà Vua cầu tự. Nhà Vua ra lệnh cho mười sáu ngàn phi tần cầu tự, nhưng dù họ thờ phượng và cầu tự thần Mặt Trăng và nhiều Thần linh khác, họ vẫn không có con.
Lúc bấy giờ chánh cung Vương Hậu Candà, con gái Nhà Vua thuộc dòng họ Madda, vốn chuyên tâm làm các việc thiện, Vua liền bảo bà cũng phải cầu tự.
Thế là vào một ngày rằm trăng tròn, bà thọ giới Uposatha Bồ Tát giới và trong khi nằm trên chiếc giường nhỏ, suy gẫm về cuộc đời đức hạnh của bà, bà thực hiện một lời cầu nguyện chân lý như sau: Nếu ta chưa bao giờ phạm các giới luật thì hãy vì lòng thành của lời cầu nguyện này, xin ban cho ta một đứa con trai. Vì uy lực của lòng thành này, cung thất của Thiên Chủ Sakka Ðế Thích nóng rực lên.
Thiên Chủ Sakka, sau khi xem xét và xác định rõ nguyên cớ xong, liền bảo: Vương Hậu Candà đang cầu tự, ta sẽ cho bà thỏa nguyện. Vì thế trong khi Thiên Chủ tìm một đứa con xứng đáng cho bà, chợt trông thấy Bồ Tát.
Lúc bấy giờ Bồ Tát, sau khi trị vì hai mươi năm tại Ba La Nại, đã tái sinh vào ngục Ussada và chịu đọa đày trong tám vạn năm, rồi lại hóa sinh vào Cõi Trời Ba Mươi Ba. Sau khi kỳ hạn ở đó đã mãn, Ngài mạng chung và ước mong lên các Thiên Giới cao hơn.
Thiên Chủ Sakka đến bảo Ngài: Này Hiền Giả, nếu Hiền Giả sinh vào Thế Giới loài người, Hiền Giả sẽ thành tựu đầy đủ các hạnh Ba La Mật và sẽ làm lợi lạc quần sinh. Hiện nay Chánh Hậu Candà đang cầu tự, xin hãy nhập mẫu thai của bà.
Ngài bằng lòng và được năm trăm vị Thiên Tử hộ tống, Ngài nhập mẫu thai của Chánh Hậu, còn năm trăm vị Thiên Tử được cưu mang trong lòng các phu nhân của các quan Đại Thần. Tử cung của Chánh Hậu như chúa đầy kim cương. Khi nhận thấy thế, bà liền tâu chuyện với Vua.
Ngài ra lệnh chăm sóc thật chu đáo cho hài nhi sắp chào đời được mọi sự bình an, và cuối cùng bà hạ sinh một hoàng nam đầy đủ mọi tướng tốt lành. Cùng ngày ấy, năm trăm hài nhi quý tộc ra đời trong dinh các quan.
Vào lúc đó, Nhà Vua ngự trên bệ rồng, Quần Thần vây quanh thì có kẻ trình lên: Tâu Ðại Vương, một Vương Tử vừa ra đời. Vua nghe vậy, tình phụ tử khởi lên, xuyên suốt da thịt Ngài đến tận xương tủy, lòng Ngài rộn rã niềm vui, Ngài thấy như trẻ lại.
Ngài hỏi Quần Thần: Các khanh có hoan hỷ khi nghe Vương Tử được sinh không?
Quần Thần đều đáp: Sao Ðại Vương lại bảo thế?
Trước đây chúng thần thật bơ vơ, nay đã có nơi nương tựa, chúng thần đã có một vị chúa tể.
Vua ra lệnh cho vị Tể Tướng: Hãy chuẩn bị một đám hầu cận cho con ta, hãy xem số hài nhi công tử vừa ra đời hôm nay là bao nhiêu?
Vị này xem thấy đủ năm trăm, liền trình lên. Vua ban năm trăm Vương bào danh dự cho năm trăm công tử ấy cùng năm trăm nhũ mẫu.
Ngài lại ban sáu mươi bốn nhũ mẫu cho Bồ Tát, những người này không được có khuyết điểm nào như quá cao, quá gầy v.v... Ngực không xệ xuống, và phải đầy sữa ngọt.
Nếu một hài nhi bú sữa trong lòng một nhũ mẫu quá cao, thì cổ hài nhi sẽ bị dài ra, nếu bú sửa trong lòng một nhũ mẫu quá thấp thì xương vai hài nhi sẽ bị co lại.
Nếu nhũ mẫu quá gầy thì đùi hài nhi sẽ đau nhức, nếu quá thô kệch thì hài nhi sẽ bị chân cong. Cơ thể của một nhũ mẫu da đen sẽ quá lạnh. Thân của nhũ mẫu da trắng sẽ quá nóng. Hài nhi nào bú sữa của một nhũ mẫu ngực cao quá sẽ bị đầu mũi tẹt. Một số nhũ mẫu lại có sữa chua, sữa đắng v.v...
Vì vậy để tránh mọi khuyết điểm trên, Vua gởi đến sáu mươi nhũ mẫu có sữa ngọt và không bị khuyết điểm nào. Và sau khi ngợi khen Bồ Tát với đủ lời tán tụng, Ngài cũng ban cho Vương Hậu một điều ước. Bà thọ lãnh ân huệ đó và ghi nhớ trong lòng.
Ðến ngày đặt tên cho hài nhi, triều thần ca ngợi các vị Bà La Môn đã thấy được những điềm lành khác nhau, cùng hỏi xem họ có thấy điềm bất tường nào chăng.
Các Bà La Môn chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của thân tướng Ngài, đồng nói: Tâu Hoàng Thượng, Thái Tử có đầy đủ mọi tướng mạo của phúc phận mai sau, Ngài sẽ có tài cai trị không những một châu mà cả bốn châu thiên hạ, ngoài ra không có điềm bất tường nào khác.
Vua đầy hoan hỷ, đặt tên con là Temiya Kumàro vì ngày sinh ra Vương Tử, Trời mưa khắp cả Vương Quốc Kàsi và Vương Tử sinh ra đã bị ướt đầm.
Khi Vương Tử đầy tháng, Ngài được chưng diện thật đẹp và đem vào yết kiến Vua. Nhìn đứa con yêu, Vua liền ôm vào lòng chơi đùa với con. Cùng lúc ấy, có bốn tên cướp được đưa đến trước mặt Vua.
Một trong bốn tên đó bị Ngài xử phạt một ngàn roi quấn gai nhọn, một tên khác phải bị gông cùm xiềng xích, một tên nữa phải bị đâm bằng giáo, và tên cuối cùng bị đâm cọc xuyên suốt toàn thân.
Bồ Tát nghe Vua cha nói, kinh hãi nghĩ thầm: Ôi cha ta vì làm Vua mà mang lấy những ác nghiệp khiến cho người phải đọa địa ngục. Ngày hôm sau Ngài được đặt nằm trên một chiếc giường lộng lẫy che lọng trắng.
Khi Ngài tỉnh dậy sau một giấc ngủ ngắn, mở mắt nhìn lên lọng trắng cùng vẻ nguy nga của Hoàng Cung, nỗi kinh hãi càng tăng lên, Ngài tự hỏi: Từ đâu ta lại đến cung này?
Và hồi tưởng lại các đời trước, Ngài nhớ ra rằng xưa kia Ngài đã đi từ thế giới Chư Thiên và đã chịu đọa đày ở địa ngục, rồi Ngài cũng đã làm Vua trong chính Kinh Thành này.
Trong lúc ấy, Ngài suy nghĩ: Ta đã làm Vua hai mươi năm, rồi chịu đọa đày tám vạn năm ở ngục Ussada, bây giờ ta lại sinh vào ngôi nhà có trộm cướp này, và cha ta, khi thấy bốn tên cướp được đưa vào, đã thốt ra những lời ác độc khiến người phải đọa địa ngục. Nếu ta làm Vua, ta cũng sẽ lại bị đọa vào địa ngục và chịu khổ hình.
Ngài vô cùng kinh hãi, thân thể vàng óng của Ngài tái nhợt đi và héo úa như đóa sen bị giày vò trong tay, Ngài nằm suy nghĩ tìm cách thoát khỏi ngôi nhà đầy kẻ cướp này.
Lúc ấy vị Nữ Thần trong chiếc lọng, ở một kiếp xa xưa nào đó đã là mẹ của Ngài, hiện ra an ủi Ngài: Này con Temiya của ta, con đừng sợ hãi, nếu con thật sự muốn thoát khỏi đây, con cứ giả vở què dù con không thực què, cứ giả điếc dù con không thực sự điếc, cứ giả vờ câm dù con không thực sự câm. Cứ khoác lên mình những dị tật đó, đừng lộ chút dấu hiệu thông minh nào cả.
Rồi bà ngâm vần kệ thứ nhất:
Con ơi, đừng lộ trí thông minh,
Cứ giả ngu đần trước chúng sinh,
Hãy chịu khinh khi từ tất cả,
Cuối cùng con đạt đến quang minh.
Ðược lời an ủi của bà, Ngài ngâm vần kệ thứ hai:
Con sẽ làm theo ý Nữ Thần,
Những lời mẹ dạy quý vô ngần,
Mẹ hiền ước muốn con an lạc,
Mẹ chỉ mong con hưởng phước ân.
Vì thế Ngài thực hiện ngay ba ác tật trên. Vua muốn con trai khỏi buồn, liền bảo đem năm trăm công tử đến bên Ngài. Những hài nhi này bắt đầu khóc đòi bú, nhưng Bồ Tát vì sợ đọa địa ngục, nghĩ rằng thà chết khát còn hơn làm Vua, nên không khóc.
Các nhũ mẫu tâu chuyện đó với Vương Hậu, và lại tâu lên Vua, Vua liền cho mời các Bà La Môn giỏi tướng số đến hỏi ý.
Họ đáp: Tâu Ðại Vương, xin Ngài hãy cho Vương Tử bú sau thời hạn qui định, Vương Tử sẽ khóc rồi ngậm chặt vú để bú tùy thích. Thế rồi họ cho Vương Tử bú sau một thời hạn qui định, có khi họ để thời hạn qui định quá một lần, có khi cả ngày họ không cho Ngài bú sữa. Nhưng Ngài sợ đọa địa ngục nên dù khát cũng không khóc đòi bú.
Thế rồi mẹ Ngài cùng các nhũ mẫu cứ cho Ngài bú, dù Ngài không khóc, họ bảo: Hài nhi đói lả rồi. Các hài nhi khác khóc la khi chưa bú, nhưng Ngài không khóc, không ngủ, cũng không co duỗi tay chân, cũng không tỏ ra nghe được tiếng động nào.
Thế là các nhũ mẫu suy nghĩ: Tay chân người què không giống thế này, hình dáng quai hàm người câm không giống thế này, hình dáng tai kẻ điếc cũng không phải thế này, chắc phải có lý do gì đây, chúng ta phải xem kỹ ra sao.
Vì vậy họ quyết định lấy sữa thử Ngài, cả ngày họ không cho Ngài bú, nhưng dù khát khô cổ họng, Ngài vẫn không thốt một tiếng kêu đòi bú.
Sau đó mẹ Ngài nói: Con ta đói lả rồi. Hãy cho nó bú. Và bà bảo họ cho Ngài bú. Như vậy thỉnh thoảng họ cho Ngài bú để thử Ngài suốt năm trường nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của Ngài.
Rồi họ bảo nhau: Trẻ con thường thích bánh kẹo và của ngon vật lạ ta hãy đem ra thử hài nhi này xem. Họ đặt năm trăm ấu nhi cạnh Ngài , đem đủ cao lương mỹ vị đến, bảo các ấu nhi lựa món ăn tùy thích rồi họ lánh mặt đi.
Các trẻ kia gây gỗ đánh nhau rồi chụp giựt bánh kẹo ăn, nhưng Bồ Tát tự nhủ: Này Temiya, cứ ăn bánh kẹo cùng cao lương mỹ vị đó nếu ngươi muốn xuống địa ngục. Rồi vì sợ đọa địa ngục, Ngài không muốn nhìn các thức ăn nữa. Và cứ thế dù họ đem kẹo bánh, cao lương mỹ vị ra thử Ngài cả năm ròng, họ cũng không khám phá chỗ yếu của Ngài.
Sau đó họ lại bảo: Trẻ con thường thích đủ loại trái cây. Và họ đem đủ thứ trái cây ra thử Ngài. Các trẻ kia đòi ăn trái cây nhưng Ngài không buồn nhìn chúng và cứ thế suốt năm ròng họ đem trái cây đủ loại ra thử Ngài.
Rồi họ lại bảo: Trẻ con thích đồ chơi. Thế là họ đem đồ chơi bằng vàng, các hình voi ngựa v.v... đến gần Ngài. Các trẻ kia giành nhau như thể đoạt chiến lợi phẩm, nhưng Bồ Tát không buồn nhìn đến chúng và cứ thế suốt cả năm ròng họ đem đồ chơi ra thử Ngài.
Rồi họ lại bảo nhau: Có một thức ăn đặt biệt đối với một trẻ lên bốn, ta thử xem sao.
Thế là họ đem ra đủ loại thức ăn, các trẻ kia bẻ chúng ra từng miếng ăn ngay, nhưng Bồ Tát tự nhủ: Này Temiya, trong quá khứ đã có vô số kiếp mà ngươi chẳng được ăn uống gì cả. Và vì sợ đọa địa ngục Ngài chẳng nhìn các món ăn, cho đến khi lòng mẹ Ngài muốn tan nát ra vì đau khổ, chính tay bà phải cho Ngài ăn.
Sau đó họ bảo nhau: Trẻ con năm tuổi thường sợ lửa, ta hãy thử xem sao. Rồi họ bảo làm một ngôi nhà lớn có nhiều cửa, che bằng lá cây Tala cọ dừa, họ đặt Ngài giữa đám trẻ con rồi nổi lửa lên. Ðám trẻ la hét chạy trốn, nhưng Bồ Tát tự nhủ thế này còn hơn các khổ hình ở địa ngục. Vì vậy Ngài hoàn toàn ngồi yên như thể vô tri giác nên khi lửa đến gần, họ đành mang Ngài đi nơi khác.
Sau đó họ bảo nhau: Trẻ con sáu tuổi thường sợ voi lung. Thế là họ bảo luyện một con voi cho thuần tính, rồi họ để Bồ Tát ngồi cùng đám trẻ trong sân Rồng và thả voi ra. Voi rống to, lấy vòi dậm đất thình thịch khiến ai nấy khiếp đảm.
Ðám trẻ chạy tứ tán vì sợ nguy đến tính mạng. Riêng Bồ Tát vì sợ địa ngục, vẫn ngồi yên. Con voi đã được huấn luyện kỹ, nhấc Ngài lên rồi đặt xuống và bỏ đi chứ không hại Ngài.
Ðến khi Ngài được bảy tuổi, lúc ngồi chơi có đám bạn ngồi vây quanh Ngài, họ thả ra bầy rắnđã bị nhổ hết răng và buột miệng chặt lại, bọn trẻ la hét bỏ chạy, nhưng Bồ Tát nhớ lại những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên, tự nhủ: Thà chết vì miệng rắn độc còn tốt hơn. Rồi bầy rắn vây quanh thân Ngài và cuộn vòng tròn trên đầu Ngài nhưng Ngài vẫn ngồi bất động. Cứ thế họ thử Ngài mãi nhưng vẫn không khám phá ra chỗ yếu của Ngài.
Sau đó họ bảo nhau: Thiếu nhi thường thích hội hè. Thế là họ đem Ngài vào sân rồng cùng năm trăm trẻ kia và cho một bầy hề họp lại làm trò. Lũ trẻ thấy bầy hề liền la hét cổ võ và cười đùa vang dội, nhưng Bồ Tát tự nhủ thầm, nếu Ngài thác sinh vào địa ngục sẽ không bao giờ được một phút cười vui, nên Ngài vẫn ngồi yên, suy nghĩ đến địa ngục và không hề để mắt đến đám hề nhảy múa.
Họ cứ thử Ngài như thế mãi, vẫn không tìm ra chỗ yếu của Ngài.
Rồi họ bảo nhau: Ta hãy lấy kiếm ra thử xem sao.
Thế là họ đặt Ngài ngồi giữa sân rồng trong khi đám trẻ đang chơi đùa, bỗng một người đàn ông chạy vụt qua bọn chúng, vung kiếm sáng loáng như gương vừa nhảy vừa la to: Con quỷ của Vua Kàsi đâu rồi, ta sẽ cắt đầu nó đây. Ðám trẻ thấy vậy kinh hãi chạy trốn, la hét ầm ỹ.
Nhưng Bồ Tát đã suy nghĩ nhiều về những nỗi kinh hoàng ở địa ngục, nên vẫn ngồi yên bất động như thể vô tri giác, dù người đó cọ xát thanh kiếm trên đầu Ngài và dọa cắt cổ, cũng không làm Ngài kinh hoàng, nên cuối cùng gã phải bỏ đi. Thế là dù thử Ngài nhiều lần như thế, họ vẫn không tìm ra điểm yếu của Ngài.
Khi Ngài lên mười tuổi, họ muốn thử xem Ngài có điếc thật không, liền treo một cái màn quanh giường, có đục lỗ bốn phía và đặt ống thổi hơi bằng vỏ ốc dưới đó mà không cho Ngài biết.
Họ đồng loạt thổi qua vỏ ốc bật ra một tiếng vang ầm ỹ, nhưng đám Quần Thần dù đứng cả bốn phía nhìn xuyên qua những lỗ trên màn suốt ngày vẫn không tìm ra được một dấu hiệu Ngài bị rối trí hay cựa quậy tay chân, ngay cả một cái giật mình cũng không có.
Một năm ròng trôi qua như vậy, rồi họ lấy trống thử một năm nữa vẫn không khám phá ra điểm yếu của Ngài.
Sau đó họ bảo: Ta lấy đèn ra thử xem. Thế là để thử xem trong đêm tối Ngài có cử động tay chân không, họ thắp đèn trong các bình thủy tinh sau khi đã tắt hết mọi đèn khác. Họ dấu các đèn thủy tinh trong bóng tối một lát rồi thình lình giơ cao các ngọn đèn ấy lên, tạo ra một luồng sáng lòa đồng loạt để xem cử chỉ Ngài ra sao.
Nhưng dù họ thử Ngài như vậy cả năm Trời, họ vẫn không thấy Ngài giật mình lần nào cả.
Thế rồi họ bảo nhau: Ta lấy mật mía thử xem sao. Và họ bôi mật mía khắp thân Ngài, đặt Ngài vào một nơi đầy ruồi nhặng rồi xua chúng ra. Chúng bu đặc trên thân Ngài và chích Ngài như kim châm nhưng Ngài vẫn nằm như thể vô tri giác. Cứ thế suốt năm ròng họ thử Ngài nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm nào.
Ðến năm Ngài lên mười bốn tuổi, họ bảo nhau: Bây giờ đã lớn rồi, thiếu niên này chỉ thích sạch sẽ và ghét dơ bẩn, vậy ta lấy đồ dơ ra thử xem. Thế là từ đó họ không cho Ngài tắm rửa, súc miệng hay tẩy uế thân thể cho đến khi Ngài bị đẩy vào một tình cảnh vô cùng khốn khổ như tên tù giam lỏng.
Khi Ngài nằm mình mẩy đầy ruồi nhặng, mọi người vây quanh nhạo báng Ngài: Này Temiya, cậu đã lớn rồi, còn ai hầu hạ cậu nữa, cậu không hổ thẹn sao cứ nằm đó mãi, dậy và tắm rửa cho sạch sẽ. Nhưng Ngài nhớ lại những nỗi thống khổ đọa đày ở địa ngục Gù Tha Phân Dơ nên Ngài vẫn nằm bất động trong tình trạng dơ bẩn khổ sở đó. Suốt năm trường họ vẫn không tìm ra nhược điểm nơi Ngài.
Sau đó họ đặt những chảo lửa dưới giường Ngài, và bảo nhau: Khi Vương Tử bị lửa nóng hành hạ, sẽ không chịu nổi và sẽ tỏ dấu hiệu đau đớn quằn quại.
Những vết bỏng dường như muốn nứt ra trên người Ngài, nhưng Ngài vẫn nhẫn nhục tự nhủ: Lửa ở địa ngục Avìci A tỳ hay Vô Gián tỏa lan ra cả trăm dặm, chứ ngọn lửa này còn dễ chịu hơn trăm, ngàn lần. Vì thế Ngài nằm bất động.
Vua cha và Vương Hậu lòng đau như cắt, bảo đám cận thần trở lại đem Ngài ra khỏi lửa và năn nỉ Ngài: Này Temiya, ta biết con sinh ra không què quặt vì người què không thể có tay chân mặt mày như con được. ta đã sinh được con sau bao năm cầu tự, vậy con đừng làm tuyệt dòng họ ta, hãy tránh cho ta khỏi bị sự chê trách của các Vua trong cõi Jambudìpa Diêm Phù Đề, Ấn Độ.
Nhưng dù họ van xin thế nào đi nữa Ngài vẫn nằm im bất động như không nghe thấy gì. Thế là Phụ Vương và Mẫu Hậu đành khóc lóc và bỏ đi.
Thỉnh thoảng Phụ Vương hay Mẫu Hậu trở lại một mình van xin Ngài như thế cả năm ròng nhưng vẫn không khám phá ra nhược điểm của Ngài.
Ðến khi Ngài lên mười sáu tuổi, họ suy nghĩ: Dù què quặt câm điếc đi nữa, không ai lớn lên lại không thích hưởng lạc, ghét điều bất lạc. Chuyện này đến thời hạn thì cũng tự nhiên như hoa nở đó thôi. Vậy ta sẽ bảo đóng tuồng cho con ta xem thử sao.
Vì thế họ triệu tập một số nữ nhân thật đẹp như tiên và giao hẹn rằng nàng nào làm được cho Vương Tử cười to hay gây cho Ngài tư tưởng dục vọng thì sẽ được tôn làm Chánh Hậu.
Rồi họ tắm cho Ngài bằng nước thơm và trang điểm cho Ngài thật đẹp như Thiên Thần, đặt Ngài nằm trên long sàng ở trong một dãy cung thất trang hoàng như các động tiên. Nội thất của Ngài được xông sực nức đủ mùi hương hoa, thuốc cao, trầm, linh tửu đủ loại... và họ rút lui.
Trong lúc đó, đám nữ nhân cứ vây quanh Ngài tìm cánh làm vui lòng Ngài với tiếng ca, điệu múa cùng những lời lẽ êm dịu ngọt ngào, nhưng Ngài nhìn chúng bằng trí tuệ tối thắng và bế hết hơi thở vô ra vì sợ chúng đụng vào thân Ngài, vì thế là cơ thể Ngài thành cứng đờ.
Chúng không thế nào đụng vào Ngài được, liền tâu với Vua cha: Cơ thể Vương Tử cứng đờ, Ngài không phải là người, mà có lẽ là quỉ dữ. Như vậy, cha mẹ Ngài, dù trong mười sáu năm liền thử thách Ngài bằng mười sáu cách ghê rợn, cùng nhiều lối thử lặt vặt khác, cũng không thể nào khám phá chỗ yếu của Ngài.
Thế là Vua chađầy phẫn nộ, cho triệu tập đám thầy tướng số đến bảo: Khi Vương Tử ra đời, các ngươi đã bảo là Vương Tử tốt số có đủ mọi điềm lành và không có dấu hiệu bất tường nào. Nhưng Vương Tử sinh ra đã què, câm, điếc. Thế là lời các ngươi không đúng sự thật.
Họ đồng đáp: Tâu Ðại Vương, không có gì các Đạo Sư của Ngài không thấy cả, nhưng chúng thần biết Ngài sẽ buồn khổ ghê gớm ra sao nếu chúng thần nói rằng hoàng nam do cả triều cầu tự này lại bạc phước, vì thế chúng thần không nói ra điều đó.
Vậy phải làm thế nào đây?
Tâu Ðại Vương, nếu Vương Tử ở lại trong cung sẽ có ba mối hiểm họa đe dọa tính mệnh của Ðại Vương hoặc ngôi báu của Ngài hoặc cho chánh hậu. Vậy thì thượng sách là xin cho vài con ngựa yếu hèn buộc vào một cỗ xe thật xui xẻo rồi đặt Vương Tử lên đó, đưa qua cửa Tây vàđem chôn Vương Tử trong nghĩa địa. Vua đồng ý, vì sợ các hiểm họa sẽ xảy ra.
Khi Vương Hậu hay tin, và vội đến gặp Vua: Tâu Chúa Thượng, Chúa Thượng đã ban cho thần thiếp một lời ước và thần thiếp vẫn chưa thỉnh nguyện, vậy giờ đây xin ban cho thiếp ân huệ đó.
Ái hậu cứ thỉnh cầu. Xin Chúa Thượng hãy trao ngôi báu cho con thiếp. Không thể được, này ái Hậu, con trai của khanh quá bạc phước.
Nếu Chúa Thượng không ban cho con trai thiếp cả đời, thì hãy cho con trai thiếp làm Vua trong bảy năm. Không thể được đâu, ái khanh.
Vậy thì trong sáu, năm, bốn, ba, hai, một năm hoặc bảy tháng, sáu, năm, bốn, ba, hai, một tháng hoặc nửa tháng. Không thể được, ái khanh.
Thế thì bảy ngày vậy. Thôi được rồi, ái hậu nhận lấy ân huệ này. Thế là Vương Hậu ra lệnh cho các cung nữ trang điểm Vương Tử thật lộng lẫy và cả Kinh Thành phải chưng bày thật đẹp mắt.
Rồi một lệnh được truyền đi cùng với tiếng trống vang dội: Ðây là Triều Đại của Thái Tử Temiya. Và Ngài được đặt trên mình voi đi ngất ngưỡng khắp Kinh Thành với chiếc lọng trắng trên đầu.
Khi trở về, Ngài được đặt trên long sàng, Vương Hậu lại van xin suốt đêm: Vương Tử Temiya con ơi, vì con trong mười sáu năm qua mẹ đã khóc than và không hề ngủ được. Mắt mẹ đã khô ráo hẳn, lòng mẹ đã tan nát vì buồn phiền. Mẹ biết, con không thật què quặt câm điếc gì, đừng làm mẹ khốn khổ tuyệt vọng nữa. Cứ thế bà van xin Ngài hết ngày này qua ngày khác trong năm hôm liền.
Qua ngày thứ sáu, Vua triệu người quản xa Sunanda đến bảo: Sáng sớm mai ngươi hãy cột vài con ngựa thật xấu xa vào một cỗ xe thật xui xẻo, bỏ Vương Tử vào, đem ra cửa tây và đào một hố có bốn góc trong nghĩa địa, ném nó vào, lấy xẻng đập đầu nó và giết chết nó đi, rồi lấp đất lên thành một đống cao, xong tắm rửa sạch sẽ rồi trở về đây.
Ðêm thứ sáu đó, Vương Hậu lại van xin: Con ơi, Vua Kàsi đã ra lệnh ngày mai đem chôn con vào nghĩa địa, ngày mai chắc con phải chết rồi con ạ. Khi Bồ Tát nghe nói vậy.
Ngài nghĩ thầm rằng: Này Temiya, hoạn nạn của ngươi trong mười sáu năm đã mãn, và Ngài vui mừng lắm nhưng lòng mẹ Ngài dường như tan nát thành hai mảnh. Tuy thế Ngài không muốn gì với bà, sợ rằng ước nguyện của Ngài không thành tựu.
Hết đêm đó, mới sáng tinh sương người quản xa Sunanda đã lái cỗ xe đến trước cổng thành, vào Hoàng Cung tâu: Xin Vương Hậu chớ giận dữ, đây là lệnh của Ðại Vương. Nói xong trong khi Vương Hậu đang ôm con trong lòng, gã lấy tay đẩy bà ra, nhấc Hoàng Tử lên nhẹ như một đóa hoa và ra khỏi cung. Hoàng Hậu còn lại trong phòng đấm ngực than khóc thảm thiết.
Khi đó Bồ Tát nhìn mẹ và nghĩ: Nếu ta không nói mẹ ta sẽ chết vì buồn phiền.
Nhưng dù Ngài định nói, Ngài lại suy nghĩ: Nếu ta nói thì công phu của ta trong mười sáu năm sẽ trở thành tro bụi, còn nếu ta không nói thì ta sẽ cứu được chính ta và cả cha mẹ ta nữa.
Sau đó người quản xa nhấc Ngài lên xe và bảo: Ta sẽ lái xe qua cửa tây. Nhưng gã lại lái xe qua cửa đông, và bánh xe lăn chạm mạnh vào bậc thềm.
Bồ Tát nghe tiếng động nhủ thầm: Ước nguyện của ta đã đạt rồi. Lòng Ngài càng hoan hỷ lên. Khi xe ra khỏi Kinh Thành, nó đã đi được chừng ba dặm nhờ các thần trợ lực, thì đến khoảng cuối một khu rừng mà người lái xe tưởng như là nghĩa địa.
Vì thế gã nghĩ rằng đây là chỗ thích hợp, gã liền quay xe ra khỏi đường cái, dừng bên đường, bước xuống, lấy hết đồ trang hoàng của Bồ Tát cột thành một bó, đặt xuống đất rồi lấy xẻng ra bắt đầu đào hố.
Lúc đó Bồ Tát nghĩ: Ðây là lúc ta phải vận dụng tận lực, mười sáu năm qua ta không hề cử động tay chân, không biết nay ta có điều khiển chúng được chăng?
Thế là Ngài đứng dậy, chà xát tay phải với tay trái, tay trái với tay phải, chà hai tay vào hai chân rồi quyết định bước ra khỏi xe. Khi chân Ngài chạm đất, đất dội lên như cái túi da đầy khí và Ngài sờ đuôi xe. Sau khi xuống xe, đi lui đi tới vài vòng Ngài cảm thấy đã dư sức đi như thế này trong một trăm dặm một ngày.
Rồi Ngài lại nghĩ: Nếu gã lái xe chống đối ta, ta có đủ sức chống lại gã chăng?
Vì thế Ngài cầm lấy đuôi xe, nhấc nó lên như đồ chơi trẻ con và Ngài tự nhủ: Ta đủ sức chống lại gã. Khi Ngài nhận thức điều này, lòng Ngài khởi lên một ước muốn được trang hoàng cho thật đẹp. Vào lúc ấy, cung Thiên Chủ Sakka Ðế Thích nóng rực lên.
Thiên Chủ Sakka tìm ra duyên cớ, liền bảo: Ước nguyện của Vương Tử Temiya đã thành tựu rồi, Ngài muốn được trang hoàng cho đẹp.
Ngài có cần gì đồ trang sức của hạ giới?
Vì thế Thiên Chủ truyền Thiên Thần Vissakamma đem đồ trang sức Thiên Giới ra tô điểm cho con trai Vua Kàsi. Vị này quấn lên mình Vương Tử cả vạn tấm vải vóc tua tỏ và trang điểm Ngài bằng đủ loại trang sức của Thiên Đình lẫn hạ giới, chẳng khác nào Thiên Chủ Sakka.
Vương Tử được điểm tô đủ mọi oai nghi lộng lẫy của một vị Thiên Chủ, đi đến bên bờ hố mà người lái xe đang đào, vừa đứng vừa ngâm vần kệ thứ ba:
Sao chú lái xe lại vội vàng
Bới đào hố nọ ở bên đàng,
Trả lời câu hỏi ta thành thật:
Ngươi muốn làm gì hố ấy chăng?
Người lái xe vẫn tiếp tục đào hố không ngước mắt lên nhìn và ngâm vần kệ thứ tư:
Chúa Thượng của ta thấy thiếu nhi
Bi què, câm, điếc, thật ngu si,
Nên ta được lệnh đi đào hố
Chôn bỏ chàng cho rảnh mắt đi.
Bồ Tát đáp lời:
Hiền hữu, ta không bị điếc câm,
Và ta cũng chẳng bị què chân,
Nếu chôn ta ở trong rừng rậm,
Ngươi sẽ phạm vào tội sát nhân.
Hãy ngắm tay chân đây của ta,
Và nghe giọng nói thốt lời ra:
Ngươi sẽ, hôm nay, mang trọng tội
Nếu chôn ta ở chốn rừng già.
Lúc đó người lái xe hỏi:
Ai đấy?
Chỉ từ lúc ta tới đây người mới lộ nguyên hình như người tả.
Vì thế gã dừng đào hố, ngước mắt lên chiêm ngưỡng dung mạo sáng ngời của Ngài, gã không biết Ngài là người hay Thần Thánh liền ngâm kệ:
Chàng là nhạc sĩ hoặc Thiên Thần,
Hay chính Sak ka Thiên Chủ chăng?
Xin nói là con ai đấy nhỉ,
Tên gì ta sẽ gọi danh xưng?
Lúc ấy, Bồ Tát vừa lộ diện vừa thuyết pháp và ngâm kệ:
Chẳng là nhạc sĩ hoặc Thiên Thần,
Cũng chẳng Sakka, đấng Ngọc hoàng,
Ta chính Kàsi Vương Tử ấy
Ngươi đem chôn sống thật hung tàn.
Ta chính con Vua Triều Đại này
Ngươi đang phục vụ hiển vinh thay,
Nếu đem ta đến đây chôn sống,
Ngươi sẽ phạm vào trọng tội ngay.
Nếu dưới gốc cây, ta nghỉ chân,
Tàn cây đổ bóng để che thân,
Ta không bẻ một cành dù nhỏ,
Chỉ kẻ ác làm hại bạn thân.
Cây che chỗ ấy chính là Vua,
Ta chính là cành lá tỏa ra,
Ngươi lái xe là người lữ khách
Nằm ngồi ở dưới bóng cây mà.
Tội to giáng xuống đầu ngươi đó,
Nếu ở rừng này chôn sống ta.
Nhưng dù Bồ Tát nói vậy, gã này vẫn không tin Ngài.
Vì thế Bồ Tát quyết định thuyết phục gã, nên Ngài làm cho cả khu rừng vang dậy tiếng nói của Ngài và lời tán thán của Chư Thiên, trong khi Ngài bắt đầu ngâm mười vần kệ này để tôn vinh tình bằng hữu:
Một kẻ trung thành với bạn thân,
Dù đi phiêu bạt khắp xa gần,
Nhiều người hoan hỷ đem cung phụng
Thực phẩm tất nhiên được hiến dâng.
Dù đất nước nào phiêu bạt qua,
Kinh Thành, thị trấn khắp gần xa,
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng được vinh quang danh vọng mà.
Không Đạo tặc nào dám tổn thương,
Cũng không võ tướng dám khinh nhờn,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Sẽ thoát khỏi bao kẻ oán hờn.
Người ấy hoàn hương, thảy đón chào,
Lòng không mòn mỏi với ưu sầu.
Kẻ nào chung thủy cùng bằng hữu
Giữa đám bà con, đệ nhất cao.
Tôn vinh người, lại được tôn vinh,
Ðược kính trọng và đáp thịnh tình.
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Nhận phần vinh hiển khắp quần sinh.
Người nào biết quý trọng người đời,
Sẽ được mọi người quý trọng thôi.
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Phần mình được tiếng tốt cao vời.
Kẻ ấy giống như lửa cháy bừng
Tỏa ra ánh sáng tựa Thiên Thần,
Người nào trung tín cùng bằng hữu
Chiếu ánh huy hoàng rực rỡ luôn.
Trâu bò tăng trưởng thật là nhanh,
Hạt giống thường xuyên mọc tốt lành.
Một kẻ trung thành cùng bạn hữu
Tất nhiên gặt hái mọi công thành.
Nếu bị rơi từ đỉnh núi cao,
Hoặc từ cây cối hoặc hang hào,
Người nào chung thủy cùng bằng hữu
Cũng thấy đất bằng vững chắc sao.
Cây đa thách đố mọi cuồng phong
Cành lá mọc quanh gốc rễ chung,
Kẻ biết trung thành cùng bạn hữu,
Oán hờn cừu địch thảy tiêu vong.
Dù Ngài đã Thuyết Pháp như vậy, gã Sunanda vẫn không nhận ra Ngài và cứ hỏi Ngài là ai.
Nhưng rồi gã đến gần xe và trước khi thấy rõ chiếc xe cùng mọi thứ trang sức mà Vương Tử mang trên người Ngài, gã đã nhận ra Ngài trong lúc nhìn Ngài, liền quỳ xuống chắp tay lại, ngâm kệ:
Ðến đây, này hỡi vị Vương gia,
Tôi sẽ xin đưa trở lại nhà,
Ngài ngự ngai vàng và trị nước,
Sao còn thơ thẩn chốn rừng già?
Bậc Ðại Sĩ đáp:
Ta không màng của cải, ngai vàng,
Chẳng thiết bạn thân hoặc họ hàng,
Vì chính ngôi Vua ta đã đạt
Là do những ác nghiệp ta làm.
Người lái xe nói:
Chén rượu đón mừng, Thái Tử ôi,
Ðược người chuẩn bị để chờ Ngài,
Phụ Vương, Mẫu Hậu đầy hoan hỷ
Sẽ tặng nhiều quà cho chính tôi.
Cung phi, mỹ nữ các Vương gia,
Vệ xá, Bà La Môn, mọi nhà,
Trong nỗi hân hoan đầy trọn vẹn,
Sẽ cho tôi hưởng thật nhiều quà.
Các vị cỡi voi, cỡi mã xa,
Bộ binh, vệ sĩ của hoàng gia
Sẽ cho tôi hưởng nhiều quà tặng
Khi Thái Tử quay trở lại nhà.
Thần dân thành thị đến thôn quê
Tụ tập mừng vui, mở hội hè,
Sẽ tặng cho tôi nhiều lễ vật,
Khi nhìn Thái Tử đã quay về.
Bậc Ðại Sĩ đáp:
Ta bị bỏ rơi bởi mẹ cha,
Kinh Thành, thị trấn ờ gần xa,
Vương Tôn bỏ mặc ta đành phận,
Ta chẳng có nhà của chính ta.
Mẫu Hậu của ta cho phép đi,
Phụ Vương cũng bỏ mặc hoàng nhi,
Trong rừng hoang vắng này đơn độc,
Ẩn Sĩ ta nguyền hạnh xuất ly.
Ðang khi nhớ lại các công hạnh của mình, một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng Ngài, và trong niềm hạnh phúc cao độ Ngài thốt lên khúc đạo ca toàn thắng:
Cũng giống những ai chẳng vội vàng
Ðạt thành nguyện ước của tâm can,
Quản xa hãy biết, hôm nay nhé,
Thánh hạnh ta thành đạt vẹn toàn.
Cũng giống những ai chẳng bước nhanh,
Tối cao cứu cánh được viên thành,
Ta đi, đầy đủ tâm thanh tịnh
Hoàn thiện, sợ gì giữa chúng sinh.
Người lái xe đáp lại:
Những lời Ngài nói thật êm tai,
Chân thật, sáng trong, lý lẽ Ngài,
Tại sao thuở trước đành câm lặng
Khi thấy song thân ở cạnh hoài?
Bậc Ðại Sĩ bảo:
Ta chẳng què vì thiếu khớp xương,
Cũng không điếc bởi thiếu tai thường,
Cũng không câm lặng vì không lưỡi,
Như dáng ta nay hiện rõ ràng.
Ta vẫn nhờ rành một kiếp xưa,
Trong tiền thân ấy được làm Vua
Nhưng từ ngôi báu, ta rơi xuống
Ta thấy mình trong chốn ngục tù.
Hai mươi năm sống cảnh xa hoa
Trên chiếc ngai vàng chỉ thoáng qua,
Nhưng tám mươi ngàn năm địa ngục,
Ta đền tội ác đã gây ra.
Dư vị hoàng gia thuở đã qua
Làm kinh hãi ngập cả tâm ta,
Cho nên ta phải đành câm lặng
Dù thấy gần bên cạnh mẹ cha.
Phụ Vương bồng bế trẻ vào lòng,
Nhưng giữa lúc đùa giỡn thiết thân,
Nghe lệnh Vua ban đầy khắc nghiệt:
Tức thì giết kẻ đại cường gian,
Hãy cưa xẻ nó ra từng mảnh,
Ðóng cọc tên kia chờ muộn màng.
Nghe lời hăm dọa thật kinh hồn,
Ta cố làm què lại điếc câm,
Lăn lóc trong bùn nhơ khốn khổ,
Làm người ngu dại cũng đành phần.
Biết rõ cuộc đời ngắn ngủi thay,
Sầu bi khổ não lại tràn đầy,
Ai vì đời sống mà khơi dậy
Sân hận cho người khác khổ lây?
Ai vì đời sống hại tha nhân,
Ðể mặc cho mình trút hận sân,
Vì muốn dành quyền cầm chánh lý
Và mù quáng trước lẽ công bằng?
Lúc đó gã Sunanda suy nghĩ: Vương Tử này từ bỏ vàng son cung điện như thể bỏ thây ma, nay vào rừng cương quyết sống đời ẩn sĩ, thế thì ta còn làm gì với cuộc đời khốn nạn này nữa?
Thôi ta cũng muốn làm Ẩn Sĩ như Ngài cho rồi.
Gã liền ngâm kệ:
Tôi cũng ước mong chọn cuộc đời
Của người khổ hạnh ở cùng Ngài,
Xin Ngài hãy gọi tôi, Vương Tử,
Ẩn sĩ, như Ngài muốn vậy thôi.
Khi nghe gã thỉnh cầu, bậc Ðại Sĩ suy nghĩ: Nếu ta nhận ngay gã này làm Ẩn Sĩ, thì cha mẹ ta không đến đây được và như thế sĩ chịu thiệt thòi, rồi ngựa xe và các vật trang sức này sẽ bị huỷ hoại.
Ta sẽ bị buộc tội vì người đời sẽ bảo: Hắn là quỷ dữ đã nuốt sống người lái xe.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bốn - Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp - Kinh úc Già Trưởng Giả
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Bốn - Bốn Pháp - Phẩm Hai - Phẩm Hành - Phần Ba - Chánh Cần
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Tịnh Luật - Phẩm Một - Phẩm Nghĩa Chân đế
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Chiên đàn - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thọ Mạng
Phật Thuyết Kinh Cha Con Gặp Nhau - Phẩm Bảy - Thọ Ký Long Nữ
Phật Thuyết Kinh Tín Lực Nhập ấn Pháp Môn - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Pháp Bí Yếu Trị Bệnh Thiền - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Thân Hành Niệm - Phần Hai - Quán Niệm Hơi Thở