Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Hai - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

BẢO LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẨM HAI

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM  

PHẦN BA  

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết Tứ Quả, Tứ Hướng của thừa Thanh Văn về tướng thông nhau và sai biệt.

Nếu Đại Bồ Tát khéo biết tướng thông và sai biệt của tứ quả, tứ hướng, thì có nhiều phương tiện vì chúng sanh thuyết pháp, khiến chúng sanh thông đạt cứu cánh, như hai thứ tướng vô ngã và trừ sạch hai thứ phiền não và sở tri chướng, trải qua tướng chư địa, đến cảnh giới cứu cánh bất tư nghì của Như Lai.

Giống như hạt châu Ma Ni tùy sắc, khéo dùng tất cả pháp cảnh giới vô tận thân tài để nhiếp thọ, lợi ích tất cả chúng sanh.

Phật bảo Đại Huệ: Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, nay ta vì ngươi thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Lành thay Thế Tôn! Con xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ: Có ba thứ Tu Đà Hoàn, Tu Đà Hoàn quả sai biệt.

Thế nào là ba?

Nghĩa là hạ, trung, thượng.

Hạ đó, bảy đời sanh mới vào Niết Bàn.

Trung đó, ba hoặc năm đời mới vào Niết Bàn.

Thượng đó, ngay đời ấy liền vào Niết Bàn.

Ba hạng này còn tam kết hạ, trung, thượng, ấy là: Thân kiến, nghi kiến và giới thủ kiến, đó là tam kế sai biệt, dần dần tiến lên thì đắc quả A La Hán.

Thân kiến có hai thứ: Là câu sanh mới sanh đã sẵn có và vọng tưởng, như duyên khởi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, là nương theo duyên khởi tự tánh thì các thứ vọng tưởng tự tánh chấp trước sanh khởi.

Vì tướng vọng tưởng chẳng thật, phi hữu phi vô, cũng chẳng phải hữu và vô mà phàm phu vọng tưởng chấp trước mỗi mỗi tự tánh vọng tưởng, như con nai đang khát tưởng dương diệm là nước, đó là thân kiến vọng tưởng của Tu Đà Hoàn.

Bậc này tu theo nhân người vô ngã, nhiếp thọ pháp vô tánh, dứt trừ vô tri chấp trước lâu đời.

Đại Huệ! Câu sanh là thân kiến của Tu Đà Hoàn, chấp có tự thân tha thân v.v... vì có tướng bốn ấm vô sắc, có năng tạo và sở tạo lần lượt làm nhân tướng mà sanh ra sắc.

Vì đại chủng và sắc chẳng phải một, nên Tu Đà Hoàn quán pháp hữu và vô chẳng hiện thì thân kiến liền đoạn. Thân kiến đoạn thì tham dục chẳng sanh, ấy gọi là tướng thân kiến hết.

Đại Huệ! Tướng nghi là tướng thấy được các pháp thiện tức là đắc nhân vô ngã thì lý nghi dứt và hai thứ vọng tưởng thân kiến ở trên đã dứt, thì pháp nghi chẳng sanh.

Không ở nơi khác khởi kiến chấp nghi bậc Sư là tịnh hay là bất tịnh thì nghi Sư thầy dứt.

Đến đây, nghi lý, nghi pháp, nghi Sư đều hết, ấy gọi là tướng nghi của Tu Đà Hoàn đoạn dứt.

Đại Huệ! Thế nào là giới thủ kiến?

Tu Đà Hoàn chẳng thủ giới, vì thấy rõ tướng khổ nơi vị lai thọ sanh nên chẳng thủ.

Đại Huệ! Nói thủ, là sự quyết định thực tập khổ hạnh tinh tấn của phàm phu, cầu sanh cảnh giới thú vui của Cõi Trời. Bậc họ chẳng thủ, là hồi hướng chỗ tối thắng tự giác, vốn lìa vọng tưởng, tu pháp vô lậu, hành tướng phương tiện, dù chẳng thủ, nhưng cũng thọ trì giới chi giới phần vô lậu, ấy gọi là đoạn dứt tướng giới thủ của Tu Đà Hoàn.

Tu Đà Hoàn đoạn dứt tam kết, tham si chẳng sanh, nếu Tu Đà Hoàn nghĩ như thế, nói ta chẳng thành tựu các kết này, ắt có hai lỗi: Đọa thân kiến và các kết chẳng dứt.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Phật nói nhiều tham dục, vậy họ đoạn dứt tham dục gì?

Phật bảo Đại Huệ: Họ đoạn dứt những trói buộc như yêu thích người nữ, tham trước đủ thứ phương tiện, tạo thân khẩu ác nghiệp, thọ sự vui trước mắt mà gieo khổ đời vị lai v.v... chẳng sanh tham dục kể trên.

Tại sao?

Vì họ đắc sự vui của tam muội chánh thọ, nên họ đoạn dứt tham dục thế gian mà chẳng phải đoạn dứt sự ham Niết Bàn.

Đại Huệ! Thế nào là tướng Tư Đà Hàm?

Ấy là đốn chiếu soi sắc tướng vọng tưởng, chẳng sanh tướng thấy tướng sanh.

Vì khéo thấy được tướng thiền hạnh, nền vãng lai thế gian này một lần, mong dứt sạch khổ để đắc Niết Bàn, nên gọi là Tư Đà Hàm.

Đại Huệ! Thế nào là A Na Hàm?

Nghĩa là đoạn dứt sự sanh kiến chấp lỗi lầm của kết tập tập khí phiền não, chẳng sanh vọng tưởng sắc tướng nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, tánh phi tánh, gọi là A Na Hàm.

Đại Huệ! Nói là A La Hán, là do sức sáng suốt giải thoát tam muội của Chư Thiền, dứt sạch tất cả khổ, phiền não của vọng tưởng tánh phi tánh, nên gọi là A La Hán.

Đại Huệ bạch Phật rằng: Thế Tôn! Phật thuyết ba hạng A La Hán, nói A La Hán này là thuộc hạng nào?

Thế Tôn! Vì đắc tịch tịnh của đạo nhất thừa, nên Đại Bồ Tát phương tiện thị hiện A La Hán để giúp Phật Giáo hóa.

Phật bảo Đại Huệ: Đắc tịch tịnh là đạo nhất thừa của Thanh Văn, chẳng phải thừa khác. Thừa khác là hành hạnh Bồ Tát, do phương tiện khéo léo của bốn nguyện, nên ở nơi chúng sanh thị hiện thọ sanh và giúp Phật Giáo hóa, cũng vì trang nghiêm quyến thuộc của Phật vậy.

Đại Huệ! Ở nơi vọng tưởng thuyết đủ thứ pháp, nói đắc quả đắc thiền, thiền giả nhập thiền, thảy đều xa lìa, thị hiện chứng đắc tự tâm hiện lượng, đắc tướng quả, gọi là đắc quả. Lại nữa.

Đại Huệ! Muốn siêu việt thiền của vô lượng Vô Sắc Giới, nên lìa tướng tự tâm hiện lượng.

Đại Huệ! Nói chánh thọ, thọ tưởng, siêu việt tự tâm hiện lượng là chẳng đúng.

Tại sao?

Vì còn có tâm lượng vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Chư thiền tứ vô lượng,

Vô Sắc Tam Ma Đề.

Tất cả thọ, tưởng diệt,

Tâm lượng vốn không có.

Sơ Quả và Nhị Quả,

Tam quả A Na Hàm.

Tứ Quả A La Hán,

Đều dứt tâm mê hoặc.

Thiền giả duyên thiền định,

Đoạn chấp thấy Chân Đế.

Dù vọng tưởng vô lượng,

Giác ngộ liền giải thoát.

Bốn câu trước của bài kệ là chỉ các thứ thiền phàm phu, ngoại đạo và tiểu thừa, đã được giải ở trên.

Lại nữa, Đại Huệ! Có hai thứ giác, là quán sát giác và tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước kiến lập giác.

Đại Huệ! Nói quán sát giác là tướng tự tánh của giác tánh, nếu quán sát sự phân biệt, lìa tứ cú bất khả đắc, ấy gọi là quán sát giác.

Đại Huệ! Nói tứ cú là lìa nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu vô, phi hữu phi vô, thường, vô thường gọi là tứ cú.

Đại Huệ! Lìa tứ cú này gọi là nhất thiết pháp. Tứ cú quán sát nhất thiết pháp này cần nên tu học.

Đại Huệ! Thế nào là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước kiến lập giác?

Là nói tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước, tướng vọng tưởng chẳng thật, như địa, thủy, hỏa, phong. Tứ đại chủng và tướng tông, nhân, thí dụ, giác được chỗ kiến lập chẳng thật mà chấp trước kiến lập, ấy gọi là tướng vọng tưởng nhiếp thọ chấp trước kiến lập giác.

Nếu Đại Bồ Tát thành tựu hai thứ giác tướng này, đến tướng cứu cánh của tướng nhân pháp vô ngã thì khéo biết phương tiện vô sở hữu giác, quán sát hành địa, đắc Sơ Địa, vào trăm tam muội đắc sai biệt tam muội, thị hiện trăm Phật và trăm Bồ Tát, biết các việc trong trăm kiếp quá khứ và vị lai, ánh sáng tự tâm chiếu soi trăm Quốc Độ, biết tướng từng bậc của chư địa Bồ Tát.

Đại nguyện thù thắng, thần lực tự tại, đến pháp Vân địa quán đảnh, sẽ chứng đắc Như Lai tự đắc địa, khéo dùng tâm thập vô tận cú để thành tựu cho chúng sanh, đủ thứ biến hóa quang minh trang nghiêm, đắc tự giác thánh lạc tam muội chánh thọ.

Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát nên khéo tạo sắc tứ đại chủng.

Thế nào là Bồ Tát khéo tạo sắc tứ đại chủng?

Đại Huệ! Đại Bồ Tát giác được Chân Đế thì tứ đại chủng chẳng sanh, ở nơi tứ đại chẳng sanh mà quán sát như thế, quán sát rồi giác được ngằn mé danh tướng của vọng tưởng, ngằn mé của tự tâm hiện và ngoài tánh phi tánh, gọi là tâm hiện vọng tưởng ngằn mé.

Quán tam giới kia, tánh lìa tạo sắc của tứ đại chủng, thông đạt tứ cú, lìa ngã, ngã sở, tự tướng như thật tướng và lìa trụ phần đoạn sanh tử, thành tựu tự tướng vô sanh.

Đại Huệ! Tứ đại chủng kia làm sao sanh khởi tạo sắc?

Là nói vọng tưởng thấm nhuần đại chủng, trước sanh nội, ngoại thủy giới, rồi cái năng sanh của vọng tưởng đại chủng, sanh nội, ngoại hỏa giới. Vọng tưởng đại chủng phiêu động, sanh nội, ngoại phong giới, vọng tưởng đại chủng ngăn cách, sanh nội, ngoại địa giới.

Do chấp sắc và hư không chấp trước lý tà thì có ngũ uẩn tập hợp, sự tạo sắc của tứ đại chủng do đó sanh khởi.

Đại Huệ! Nói thức ấm là do ham thích đủ thứ sự thích cảnh giới của lục trần dính mắc chẳng bỏ, nên phải tương tục thọ sa nh nơi các loài khác.

Đại Huệ! Địa, thủy, hỏa, phong tứ đại chủng và sở tạo sắc pháp v.v... là do thức ấm duyên theo nghiệp mà sanh ra tứ đại, chẳng phải tứ đại tự làm duyên mà sanh ra thức ấm.

Tại sao?

Vì hình tưởng tự tánh, chỗ sở tác chỉ là phương tiện vô tánh, nên đại chủng chẳng sanh.

Đại Huệ! Hình tướng tự tánh là do chỗ sở tác phương tiện hòa hợp mà sanh, chẳng phải vô hình. Cho nên tướng tứ đại tạo tác là vọng tưởng của ngoại đạo, chẳng phải thuyết của ta.

Lại nữa, Đại Huệ! Nay sẽ thuyết tướng tự tánh của các ấm.

Thế nào là tướng tự tánh của các ấm?

Nói ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm phi sắc là thọ, tưởng, hành, thức.

Đại Huệ! Nói sắc ấm, là tứ đại và tạo sắc mỗi mỗi có tướng riêng khác biệt.

Đại Huệ! Bốn ấm vô sắc chẳng phải vô sắc mà có bốn số thọ, tưởng, hành, thức như hư không. Ví như hư không siêu việt tướng số mà lìa nơi số, chẳng có số lượng mà vọng tưởng nói là một hư không.

Đại Huệ! Như thế, bốn ấm vô sắc cũng siêu việt tướng số mà lìa nơi số, lìa tánh phi tánh, lìa tứ cú. Nói tướng số là ngôn thuyết của phàm phu, chẳng phải Thánh Hiền vậy.

Đại Huệ! Bậc Thánh như huyễn, mỗi mỗi sắc tướng lìa sự dựng lập, khác hay chẳng khác, cũng như thân bóng mộng của sĩ phu, lìa khác và chẳng khác.

Đại Huệ! Nói Thánh Trí đồng như tướng vọng tưởng của ngũ ấm hiện, gọi là tướng tự tánh của các ấm, ngươi nên diệt trừ. Diệt rồi thuyết pháp tịch tịnh, dứt tất cả kiến chấp của các ngoại đạo nơi tất cả Cõi Phật.

Đại Huệ! Lúc nói tịch tịnh, là thấy pháp vô ngã tịnh, và vào Bất Động Địa, Đệ Bát Địa. Vào Bất Động Địa rồi, đắc vô lượng tam muội tự tại và đắc ý sanh thân, đắc như huyễn tam muội, thông đạt sự cứu cánh sáng tỏ tự tại, cứu giúp lợi ích tất cả chúng sanh, giống như Đại Địa nuôi dưỡng chúng sanh, Đại Bồ Tát phổ độ chúng sanh cũng như thế.

Lại nữa, Đại Huệ! Các ngoại đạo có bốn thứ Niết Bàn.

Thế nào là bốn?

1. Tánh của tự tánh phi tánh Niết Bàn.

2. Mỗi mỗi tướng của tự tánh phi tánh Niết Bàn.

3. Tướng giác của tự tánh phi tánh Niết Bàn.

4. Tương tục lưu chú của tự tướng cộng tướng nơi ngũ ấm đoạn dứt Niết Bàn.

Ấy gọi là bốn thứ Niết Bàn của các ngoại đạo, chẳng phải pháp sở thuyết của Ta.

Đại Huệ! Pháp của ta thuyết là các thức của vọng tưởng diệt, gọi là Niết Bàn.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn há chẳng kiến lập thức thứ tám ư?

Phật đáp: Kiến lập.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Nếu kiến lập thì tại sao chỉ lìa ý thức thức thứ sáu mà chẳng lìa thức thứ bảy?

Phật bảo Đại Huệ: Vì lìa sự phan duyên của thức thứ sáu thì thức thứ bảy chẳng sanh. Ý thức là phân biệt cảnh giới phần đoạn của tiền ngũ thức, đang lúc phân biệt, liền sanh khởi chấp trước, thì những tập khí nuôi dưỡng nơi tạng thức, khởi hiện hành huân tập chủng tử, do thức thứ bảy truyền vào ý thức, tức là cùng trong thức thứ tám vậy.

Chấp trước ngã và ngã sở thì nhân duyên tư duy sanh khởi, thân tướng chẳng hoại, tạng thức do ý thức phan duyên thì cảnh giới tự tâm hiện, tâm chấp trước liền sanh.

Các thức lần lượt làm nhân với nhau, cũng như làn sóng biển, do ngọn gió của cảnh giới tự tâm hiện thổi, làn sóng các thức hoặc sanh hoặc diệt cũng như thế. Cho nên, ý thức diệt thì thức thứ bảy theo đó cũng diệt.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết rằng:

Ta chẳng trụ Niết Bàn.

Tướng năng tác, sở tác.

Tánh Niết Bàn ta thuyết,

Lìa vọng tưởng nhĩ diệm.

Do thức phan duyên nhau,

Thành đủ thứ thân hình.

Gốc nhân chính là tâm,

Nơi nương tựa của thức.

Như dòng nước đã cạn,

Thì làn sóng chẳng khởi.

Vậy ý thức diệt rồi,

Thì các thức chẳng sanh.

Lại nữa, Đại Huệ! Nay ta sẽ thuyết tướng thông phân biệt của vọng tưởng tự tánh.

Nếu đối với tướng thông phân biệt của vọng tưởng tự tánh mà khéo phân biệt, thì ngươi và các Đại Bồ Tát được lìa vọng tưởng, đến chỗ tự giác Thánh Trí, chẳng còn vọng tưởng thì mỗi mỗi tướng và hành duyên khởi từ vọng tưởng tự tánh và năng nhiếp sở nhiếp đều đoạn dứt, cũng là giác được kiến chấp thần thông của ngoại đạo.

Đại Huệ! Thế nào là tướng thông phân biệt của vọng tưởng tự tánh?

Là gồm ngôn thuyết vọng tưởng, sở thuyết sự vọng tưởng, tướng vọng tưởng, lợi vọng tưởng, tự tánh vọng tưởng, nhân vọng tưởng, kiến vọng tưởng, thành vọng tưởng, sanh vọng tưởng, bất sanh vọng tưởng, tương tục vọng tưởng, phược bất phược trói chẳng trói vọng tưởng, ấy gọi là tướng thông phân biệt của vọng tưởng tự tánh.

Đại Huệ! Thế nào là ngôn thuyết vọng tưởng?

Là chấp đủ thứ điệu âm nhạc, cho là vui thú, gọi là ngôn thuyết vọng tưởng.

Thế nào là sở thuyết sự vọng tưởng?

Là nói có sự sở thuyết của tự tánh, do Thánh Trí hiểu biết, theo đó mà sanh ngôn thuyết vọng tưởng, gọi là sở thuyết sự vọng tưởng.

Thế nào là tướng vọng tưởng?

Là ngay nơi sự sở thuyết kia, như nai đang khát, tưởng dương diệm là nước, mỗi mỗi chẳng thật mà chấp là thật, nói tướng của tứ đại, tất cả tánh đều thuộc vọng tưởng, gọi là tướng vọng tưởng.

Thế nào là lợi vọng tưởng?

Nói ham thích đủ thứ vàng bạc châu báu, gọi là lợi vọng tưởng.

Thế nào là tự tánh vọng tưởng?

Nói tự tánh có sự thật chấp trì như thế, chẳng khác với vọng tưởng ác kiến, gọi là tự tánh vọng tưởng.

Thế nào là nhân vọng tưởng?

Nói hoặc nhân hoặc duyên để phân biệt hữu và vô thì tướng nhân sanh, gọi là nhân vọng tưởng.

Thế nào là kiến vọng tưởng?

Là đối với hữu, vô, nhất, dị, đồng, chẳng đồng, những vọng tưởng ác kiến của ngoại đạo, nổi vọng tưởng chấp trước, gọi là kiến vọng tưởng.

Thế nào là thành vọng tưởng?

Là đối với tư tưởng ngã và ngã sở, lập thành luận quyết định, gọi là thành vọng tưởng.

Thế nào là sanh vọng tưởng?

Nói duyên theo tánh hữu và vô, sanh khởi chấp trước, gọi là sanh vọng tưởng.

Thế nào là bất sanh vọng tưởng?

Là nói tất cả tánh vốn vô sanh vô chủng, do nhân duyên sanh cái thân vô nhân chẳng có cái nhân bắt đầu, gọi là bất sanh vọng tưởng.

Thế nào là tương tục vọng tưởng?

Là nói vật này vật kia liên hệ lẫn nhau, như kim và chỉ liền nhau mới có thể may vá, gọi là tương tục vọng tưởng.

Thế nào là phược bất phược vọng tưởng?

Nói trói chẳng trói là do nhân duyên chấp trước, như phương tiện của sĩ phu hoặc trói hoặc mở trói, gọi là phược bất phược vọng tưởng.

Đại Huệ! Nơi tướng thông và phân biệt của vọng tưởng tự tánh này, tất cả phàm phu chấp trước cho là hữu và vô.

Đại Huệ! Do duyên khởi mà chấp trước mỗi mỗi vọng tưởng của tự tánh chấp trước, hiện ra đủ thứ thân hình như huyễn, phàm phu vọng tưởng, thấy mỗi thứ huyễn tướng khác nhau.

Đại Huệ! Mỗi thứ tướng huyễn chẳng phải khác, cũng chẳng phải không khác. Nếu nói khác thì huyễn chẳng phải nhân của mỗi thứ kia. Nếu nói chẳng khác thì huyễn và mỗi thứ kia chẳng sai biệt mà lại thấy sai biệt. Do đó, nói chẳng phải khác cũng chẳng phải không khác.

Cho nên, Đại Huệ! Ngươi và các Đại Bồ Tát, đối với vọng tưởng tự tánh, duyên khởi tướng như huyễn, khác hay chẳng khác, hữu hay vô, chớ nên chấp trước.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Trói tâm nơi cảnh giới,

Trí giác tưởng chuyển theo.

Thắng giải vô sở trụ,

Trí huệ bình đẳng sanh.

Vọng tưởng thì tánh hữu,

Nơi duyên khởi thì vô.

Vọng tưởng và nhiếp thọ,

Phi vọng tưởng duyên khởi.

Mỗi mỗi phân biệt sanh,

Như huyễn lại chẳng thành.

Dù hiện đủ thứ tướng,

Vọng tưởng cũng chẳng thành.

Chấp trước là lỗi lầm,

Đều do tâm trói sanh.

Vọng tưởng vốn vô tri,

Nơi duyên khởi vọng tưởng.

Tánh các vọng tưởng này,

Tức là duyên khởi kia.

Vọng tưởng có đủ thứ,

Nơi duyên khởi vọng tưởng.

Tục Đế đệ nhất nghĩa,

Ngoại đạo chấp thành ba.

Cho là vô nhân sanh,

Dứt vọng tưởng Tục Đế,

Là cảnh giới Bậc Thánh.

Ví như sự tu hành,

Một không hư không hiện nhiều mây.

Hư không vốn chẳng mây,

Lại hiện mây như thế.

Tâm cũng như hư không,

Vọng tưởng hiện nhiều sắc.

Do duyên khởi mà hiện,

Chẳng phải sắc phi sắc,

Ví như luyện vàng ròng,

Lọc bỏ các tạp chất,

Vàng thiệt liền hiện ra.

Vọng tưởng sạch cũng vậy.

Tự tánh chẳng vọng tưởng,

Vì duyên khởi thành có.

Kiến lập và phủ định,

Thảy đều do vọng tưởng.

Vọng tưởng nếu vô tánh,

Mà có tánh duyên khởi.

Vô tánh sanh hữu tánh,

Hữu tánh sanh vô tánh,

Nương nhau nơi vọng tưởng,

Mà thành tướng duyên khởi.

Danh tướng thường theo nhau,

Mà sanh các vọng tưởng,

Độ thoát các vọng tưởng,

Rồi thành trí trong sạch,

Gọi là đệ nhất nghĩa.

Duyên khởi có sáu thứ,

Vọng tưởng có mười hai.

Tự giác và nhĩ diệm,

Vốn chẳng có sai biệt.

Năm pháp đều chân thật,

Tự tánh có ba thứ.

Tu hành thấu nghĩa này,

Chẳng ngoài nơi như như.

Các tướng và duyên khởi,

Đều gọi khởi vọng tưởng.

Các tướng vọng tưởng kia,

Từ duyên khởi mà sanh.

Giác huệ khéo quán sát,

Vô duyên vô vọng tưởng.

Thành tựu tánh vô sanh,

Thế nào giác vọng tưởng.

Do tự giác vọng tưởng,

Kiến lập hai tự tánh:

Là hiện cảnh vọng tưởng,

Và cảnh giới Bậc Thánh.

Vọng tưởng như tranh vẽ,

Duyên khởi tức vọng tưởng.

Nếu nói khác vọng tưởng,

Là luận của ngoại đạo.

Do nhị kiến hòa hợp,

Sanh năng tưởng, sở tưởng.

Lìa hai năng, sở ấy,

Thành trí huệ bình đẳng.

Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng tự giác Thánh Trí và nhất thừa, khiến con và các Bồ Tát khéo tự giác, chẳng nhờ người khác mà thông đạt Phật Pháp.

Phật bảo Đại Huệ: Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ: Theo sở tri của Bậc Thánh xưa là vọng tưởng vô tánh, từng đời truyền thọ nhau, nghĩa là Đại Bồ Tát tự ở nơi thanh tịnh quán sát tự giác, chẳng do người khác mà được lìa kiến chấp vọng tưởng. Dần dần tiến lên, vào địa vị Như Lai, ấy gọi là tướng tự giác Thánh Trí.

Đại Huệ! Thế nào là tướng nhất thừa?

Ấy là giác được đạo nhất thừa, ta nói là nhất thừa.

Thế nào là giác được đạo nhất thừa?

Là nói nhiếp sở nhiếp của vọng tưởng, chỗ như thật thì chẳng sanh vọng tưởng, gọi là nhất thừa Giác.

Đại Huệ! Nói nhất thừa Giác, trừ Như Lai ra, chẳng phải hàng ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác và Vua Phạm Thiên có thể giác được, nên gọi là nhất thừa.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tại sao nói tam thừa mà chẳng nói nhất thừa?

Phật bảo Đại Huệ: Vì tất cả Thanh Văn, Duyên Giác đối với pháp Niết Bàn chẳng thể tự chứng, nên chẳng nói nhất thừa. Do Như Lai muốn điều phục tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, truyền thọ pháp tịch tịnh, bậc họ nhờ phương tiện mà đắc giải thoát, chẳng phải do sức của chính mình chứng đắc, nên chẳng nói nhất thừa.

Lại nữa, Đại Huệ! Đối với người chẳng dứt tập khí nghiệp chướng phiền não, nên chẳng vì tất cả Thanh Văn, Duyên Giác nói nhất thừa. Đối với người chẳng dứt được pháp vô ngã chẳng lìa phần đoạn sanh tử, nên thuyết tam thừa.

Đại Huệ! Các bậc họ nếu dứt được lỗi tập khí và giác được pháp vô ngã, thì tất cả lỗi tập khí phiền não chẳng sanh khởi, đối với sự phi tánh chấp trước ham thích mùi vị của tam muội, bậc vô lậu đã giác được, giác rồi lại ra vào thế gian, dần dần từ bậc vô lậu đến chỗ bồ đề viên mãn, sẽ chứng đắc tự tại pháp thân bất tư nghì của Như Lai.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Chư Thiên và Phạm Chúng,

Thừa Thanh Văn, Duyên Giác.

Chư Phật Như Lai Thừa,

Ta thuyết những thừa này.

Cho đến tâm thức chuyển,

Các thừa chẳng cứu cánh.

Nếu tâm thức diệt sạch,

Thì chẳng thừa vô thừa.

Chẳng có thừa kiến lập,

Nên ta nói nhất thừa.

Vì dẫn dắt chúng sanh,

Phân biệt nói các thừa.

Giải thoát có ba thứ.

Nhân người và pháp vô ngã.

Phiền não sở tri chướng

Xa lìa được giải thoát.

Như gỗ nổi mặt biển,

Tùy làn sóng xoay chuyển.

Bậc Thanh Văn cũng thế,

Bị tướng gió thổi trôi.

Tu tập diệt phiền não,

Còn tập khí sót lại.

Ham mùi vị tam muội,

An trụ cõi vô lậu.

Chẳng đến chỗ cứu cánh,

Cũng chẳng có lui sụt.

Đắc các thân tam muội,

Bất giác uổng qua nhiều kiếp.

Ví như người say rượu,

Rượu tiêu rồi mới tỉnh.

Pháp giác họ cũng thế,

Cuối cùng vẫn thành Phật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần