Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thực Hành Phương Tiện - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

 

PHẬT THUYẾT KINH

BỒ TÁT THỰC HÀNH PHƯƠNG TIỆN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẦN BA  

Văn Thù Sư Lợi! Như Vua Chuyển Luân có những công đức nhỏ gom thành nhiều đức lớn. Có tham có sân có si có thân có kết có sử.

Vì Vua Chuyển Luân này! Tất cả đều không làm nên oán trách.

Vì sao vậy?

Này Văn Thù Sư Lợi! Vị Chuyển Luân Vương này không có sầu não.

Văn Thù Sư Lợi! Như Lai từ khi chuyển bánh xe pháp dùng vô lượng trí tuệ công đức trang nghiêm đầy đủ, chứng được tâm từ bi không dứt, làm những việc bình đẳng thấu suốt như bảy phần bồ đề được thành tựu, vì pháp không quên mà chuyển pháp luân. Bên ngoài có nhiều sự tranh tụng phiền não, không nơi nào là không có.

Văn Thù Sư Lợi nên biết! Nếu thấy nơi Quốc Độ của Phật có ngoại đạo xuất gia thì Thiện Nam Tử nên biết rằng tất cả đều ở yên một nơi! Đây là nơi Phật.

Văn Thù Sư Lợi! Cũng giống như những con thú yếu đuối đứng trước con Sư Tử. Cũng như thế ấy Văn Thù Sư Lợi, các ngoại đạo xuất gia không thể vào nơi cảnh giới của Như Lai được.

Cũng chẳng có thể cùng với Như Lai để tranh luận nữa. Sư Tử lớn kia luôn có mười lực được vô úy, phía trước rống lên, cũng không sao cả. Chỉ trừ khi có sức gia trì của Như Lai.

Này Văn Thù Sư Lợi! Giống như Mặt Trời phóng ra nhiều lưới ánh sáng, tất cả những đám lửa đều yên ổn, tất cả những trân bảo nhờ ánh sáng chiếu cũng như chiếu vào chỗ tối tăm.

Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi! Khi Đức Như Lai chiếu ra ánh sáng, phóng đại quang minh trí tuệ làm cho những ngoại đạo xuất gia cũng được yên ổn, không có nơi nào là không chiếu sáng.

Văn Thù Sư Lợi! Dụ như Thắng Thiết Vương tùy nơi đất mà xuất hiện, tất cả các loại sắt đều không tồn tại, vì sắt hòa nhập vào vậy. Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi.

Nếu có nước Phật nào có Phật xuất thế, phải biết rằng dẫu cho các ngoại đạo có xuất gia đi chăng nữa thì cũng không sao.

Vì sao vậy?

Vì tướng của họ không giống tướng của Phật ở nơi đời.

Này Văn Thù Sư Lợi! Giống như Ý Bảo Vương tùy nơi mà xuất hiện, không sanh tất cả những Ma Ni Bảo giả.

Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi! Như Lai có đại trí tuệ quý giá xuất hiện thì phải biết rằng nơi đó không có sinh ra ngoại đạo.

Này Văn Thù Sư Lợi! Dụ như Bảo Tánh có xuất hiện vàng nơi Diêm Phù Đàn thì nơi ấy không xuất hiện đồ đồng thấp giá v.v…

Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi! Nếu Thế Giới nào có Phật xuất hiện thì xứ đó tất nhiên không có ngoại đạo xuất hiện.

Này Văn Thù Sư Lợi! Hãy biết rằng tùy theo phương tiện mà Phật xuất hiện, không muốn cho các ngoại đạo xuất gia.

Văn Thù Sư Lợi! Nay ngươi nên biết Như Lai đã gìn giữ bất khả tư nghì phương tiện cảnh giới. Đây là nhân duyên vậy. Ở trong những Quốc Độ Phật này hiện ra ngoại đạo để xuất gia.

Vì sao làm vậy?

Vì tất cả ngoại đạo mà làm cho giải thoát bất khả tư nghì, từ nơi bát nhã Ba La Mật Đa mà sanh ra, du hí phương tiện, lại cũng chẳng xa rời niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng, giáo hóa chúng sanh đến bờ giải thoát.

Như Lai giữ nhiệm vụ giáo hóa chúng sanh vậy. Cho nên lúc nói pháp có tám ngàn Thiên Tử nương vào Thanh Văn thừa nghe nói một thừa, phát tâm Vô Thượng chánh đạo.

Năm trăm vị Tỳ Kheo được nhất thừa, chứng được tam muội. Một ngàn hai trăm Bồ Tát chứng được vô sanh pháp nhẫn, làm cho ba ngàn Đại Thiên Thế Giới sáu loài chấn động. Từ Cõi Trời Chư Thiên rải hoa sen xanh vàng đỏ trắng, lại cũng có mưa bột chiên đàn.

Trước nơi Phật có trăm ngàn Thiên Tử từ trên không trung phát lời tán thán. Áo Chư Thiên xoay vần trên hư không, tự tại qua lại.

Chư Thiên trỗi nhạc nói lời rằng: Xưa nay chưa từng nghe kinh như thế xuất hiện nơi Đời.

Thế Tôn! Nên làm cho Kinh này lưu hành nơi Diêm Phù Đề, tám trăm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni rời khỏi chỗ ngồi đến trước Phật.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này một lần nữa, nên nói kệ rằng:

Phương tiện cảnh giới bất tư nghì

Văn Thù Sư Lợi đang biết ta

Ta chuyên luyện trì sự giác ngộ

Ta cũng thị hiện như lúc này

Thời tiết thay đổi ta chẳng ngại

Thường hay nhớ đến pháp hay này

Chúng sanh nghe pháp ta qua khỏi

Chúng sanh hết khổ ta chẳng có

Siêng năng luyện tập công đức ấy

Cũng luyện phước điền không bợn nhơ

Ta siêng năng nên chứng bồ đề

Cho nên biết rằng ta chẳng động

Ta từ vô lượng kiếp đến nay

Thành tựu vô lượng trí huệ Phật

Như ta đắc độ, mạng cũng thế

Ở giữa khoảng này chẳng mất đi

Ta phương tiện hiện ra diệt độ

Có thường tưởng vậy như vô thường

Ta nay thị hiện để bỏ đi

Thọ mệnh của ta ở vị lai

Ta chỉ một thừa mà diệt độ

Ta chẳng chứng được sai biệt thừa

Làm như ba thuyết lại ba thừa

Phải biết rằng đây là phương tiện

Có tâm giải đãi và tâm nhỏ

Nghe rồi sanh ra chẳng sợ hãi

Làm thế cho nên chỉ ba thừa

Chỉ có một thừa không có hai

Ta vì chúng sanh mà thuyết pháp

Nhắm vào Phật Đạo là cốt yếu

Chỉ có một thừa nhưng nói ba

Từ nơi thừa này chẳng mất mát

Như giả làm cho qua bờ kia

Đây là trí thị hiện nơi đời

Thế Tôn lại cũng hơn các pháp

Đây chỉ một thừa nói thành ba

Tâm Phật cùng với tâm chúng sanh

Ta lại cũng hay nghĩ sai khác

Ta có ý tốt nơi thừa thấp

Ta lại có các sự kiên định

Trong lưu ly có nhiều chất quý

Tùy theo lúc mà ở yên đó

Tất cả đều cùng một màu sắc

Đó là sắc vàng không phân biệt

Đức Phật trí tốt cũng như thế

Tất cả nước Phật đều chiếu sáng

Tất cả chúng sanh đều một màu

Màu của giác ngộ chẳng khác nhau

Giống như lửa nhỏ khi bị đốt

Dần dần lớn lên thành lửa lớn

Trí tuệ Thanh Văn cũng như thế

Cũng nhờ Chư Phật chiếu công đức

Núi Tu Di cũng lại quay về

Giống với uy đức cùng một màu

Trở về mười lực cũng như thế

Kẻ nhẫn nại sẽ được giác ngộ

Giống như tất cả các cửa ngõ

Thâu thập nhiều loại vật khác nhau

Tất cả các vật đều hòa hợp

Tất cả đều làm một tướng ngọt

Biết đời hiểu đời cũng như vậy

Thị hiện trải qua ba thừa rồi

Tất cả các loại hòa hợp xong

Thành giác ngộ chẳng có tướng khác

Chuyển luân Trời người không sầu muộn

Chẳng có nơi nào riêng hờn dỗi

Ta vì pháp giới mà khuyên bảo

Vì sao lại có cảnh ngoại đạo

Giống như mặt Trời mới mọc lên

Làm yên tất cả ánh sáng sao

Trí huệ phát sanh cũng như vậy

Bởi vì ngoại đạo chẳng chiếu sáng

Tùy theo chỗ mạnh mà nương vào

Tất cả ngoài có chẳng làm được

Nếu có nơi nào Như Lai đến

Nơi ấy chẳng có ngoại đạo làm

Tùy theo chỗ ấy vàng bạc hiện

Chỗ ấy chẳng sanh thêm đồng nữa

Nếu cả đất nước thành giác ngộ

Xứ ấy chẳng có người ngoại đạo

Châu tốt châu xấu không hòa lẫn

Quá khứ vị lai chẳng hòa chung

Phật và ngoại đạo cũng như thế

Ở cùng một nơi chẳng hòa hợp

Thẩm định thần thông cùng tự tại

Tất cả cửa vào trí ngoại đạo

Làm phương tiện kẻ ấy trí huệ

Thị hiện các loại cùng biến hóa

Nghe các phương tiện cảnh giới rồi

Lúc ấy Phật Tử rất hoan hỷ

Sanh ra vui mừng không kể hết

Rải hoa cúng dường nơi Đức Phật

Đất này sáu điệu đều rung động

Trên không trổi nhạc tiếng vang lên

Vạn người Cõi trên đều chắp tay

Khen rằng lành thay Đức Phật nói.

Khi nói kệ này xong Tát Giá Ni Kiền Tử cùng với tám mươi ức đồ đệ của Ni Kiền từ Nam Phương lần lượt tiến đến các Thế Giới khác, hướng về Ưu Thiền Ni thành bốn và cùng với trăm ngàn đại chúng vây quanh trang nghiêm xướng lên rằng: Lúc bấy giờ Vua Chiên Trà Bát Thọ Đề thấy được Tát Giá Ni Kiền Tử đến. Tát Giá sinh tâm vui mừng thanh tịnh, cùng với các Đại Thần trong cung và quyến thuộc, Quốc Vương, thứ dân với bốn loại lính.

Đại Vương uy đức, Đại Vương thần lực. Trăm ngàn cảnh đẹp làm trang nghiêm, tiếng trống và trăm ngàn kỷ nhạc cùng với tràng phan bảo cái trang nghiêm, tất cả đều đến để nghinh tiếp Tát Giá Ni Kiền. Lúc bấy giờ Tát Giá Ni Kiền Tử đưa mắt nhìn Đại Vương Chiên Trà Bát Thụ Đề, nói lời nhỏ nhẹ.

Đại Vương cao quý! Ở nơi nước Ngài chẳng có tướng của sự sợ hãi, không có bệnh hoạn, khổ não, sầu bi. Nước này   và âm nhạc rất tốt. Người ác chẳng có, giữ cho đẹp đẽ, như vậy nước này chẳng loạn ly.

Thưa Đại Vương! Nơi nước này chư vị Sa Môn, Bà La Môn có an lạc chăng?

Đại Vương có dùng luật pháp mà trị nước không?

Đại Vương có làm hại các chúng sanh như chim cá hay không?

Vì sao vậy?

Đại Vương nên biết! Tất cả chúng sanh đều yêu mạng sống của chúng.

Cho nên Đại Vương! Nên giữ giới không sát sanh và đừng nên trộm cắp thì đời sống tại đó sẽ được sung túc. Không tà dâm, tự biết đủ với nhan sắc của vợ nhà. Cuối cùng là không vọng ngữ mà nói lời chân thật. Cũng chẳng nói lưỡi đôi chiều. Không nói ác khẩu mà nói lời nhu hòa. Không nói lời trau chuốt mà nói lời thành thật. Hãy vì kẻ khác mà bố thí thì ít sanh tâm tham lam.

Này Đại Vương! Hãy nên lìa xa sự sân hận. Hãy lấy lòng từ để trang nghiêm thân, khẩu, ý.

Này Đại Vương! Không nên sanh tà kiến, mà phải thực hành chánh kiến.

Này Đại Vương! Cũng không nên sống hạnh buông lung. Hay quán sát về sự vô thường.

Đại Vương nên biết! Đời sống ngắn ngủi và kế tiếp đời khác. Cho nên Đại Vương phải nên lo cho đời sau và hãy tin vào nghiệp báo.

Nên nói kệ như vậy:

Con người thường đừng buông lung

Hộ trì chỗ ở đừng thay đổi

Kẻ nào buông lung vào đường dữ

Nếu không buông lung sanh đường lành

Lại chẳng thâu ngắn mạng chúng sanh

Tất cả chúng sanh yêu mạng sống

Kẻ trí chẳng nên hại mạng chúng

Thương giúp chúng sanh như thân mình

Hãy nên xa lìa sự trộm cắp

Cũng đừng nên nói lời chẳng thật

Thường hay giúp đỡ nói lời ngay

Đại Vương ngày sau sanh chỗ tốt

Nên dùng ngôn ngữ dễ vui nghe

Chẳng nên nói lời thô bạo quá

Thường nói lời hay và diệu hiền

Đại Vương chẳng nên nói hai lưỡi

Ngài cũng chẳng nên nói ỷ ngữ

Mà phải tùy thuận để nói ra

Lìa các sân hận và lời ác

Như voi lớn kia sanh đường lành

Ngài cũng chẳng làm việc tà dâm

Được vậy vợ Ngài chẳng móng tâm

Hãy nên biết đủ nơi vợ mình

Sẽ được sanh vào nơi đường tốt

Đại Vương chớ nên thấy không đúng

Hãy nên thấy nghe chỗ chân chính

Mà nên thực hành các thuận pháp

Đại Vương sanh thêm nhiều niềm vui

Bậc Sa Môn Bà La Môn thảy

Cũng lại hiếu thuận nơi cha mẹ

Xa rời đường ác qua đi rồi

Sẽ nhận niềm vui nơi Cõi Trời.

Đây là lời của Tát Giá Ni Kiều Tử nói pháp không phóng dật cho Đại Vương, khuyên Bát Thọ Đề Vương rồi, lúc bấy giờ Chiên Trà Bát Thọ Đề Vương hướng đến Tát Giá Ni Kiền Tử nói những lời tốt đẹp an lạc.

Tự nói rằng: Nếu không làm những việc như thế thì như Bà La Môn đã đến nhà ta.

Vì sao vậy?

Ta nay khuyến thỉnh chư vị cùng quyến thuộc và muốn thiết đãi cơm nước.

Ni Kiền Tử nói rằng: Hay thay! Hay thay! Hãy cứ thế mà làm!

Vì sao vậy?

Này Đại Vương! Ta đạt đến đạo và đã xa rời sự đói khát.

 Đại Vương cứ như vậy, theo lời mà thỉnh. 

Lúc bấy giờ Đại Vương đi sau quyến thuộc của Tát Giá Ni Kiền Tử, trước đó vào Cung Vua. Khi vào rồi Tát Giá Ni Kiền Tử ngồi xuống và các Ni Kiền khác tùy theo thứ lớp mà ngồi.

Lúc bấy giờ Đức Vua với lòng từ tâm cung kính tự tay mình lấy đồ ăn cho Tát Giá Ni Kiền và các quyến thuộc.

Sau khi ăn no rồi, lúc bấy giờ Đức Vua mới suy nghĩ như thế này: Ta nay nên hỏi một ít nơi Tát Giá Ni Kiền Tử rằng ông ta có kính trọng Đức Như Lai chăng?

Sau khi Vua nghĩ như thế rồi, lấy gối ngồi quỳ phía trước Ni Kiền Tử và nói lời như thế này: Này Bà La Môn, ta có một ít luận tranh. Nếu nghe mà hứa thì ta sẽ hỏi, vì ta mà nói.

Tát Giá Ni Kiền Tử bảo Đại Vương rằng: Tùy theo ý của Vua muốn hỏi cái gì thì cứ hỏi, ta sẽ trả lời theo sự hiểu của ta.

Vua nghe lời ấy rồi liền hỏi: Này Bà La Môn! Trong Thế Giới này có nhiều chúng sanh có trí tuệ hiểu được rõ ràng, tâm không loạn động có nhiều chăng?

Tát Giá đáp rằng: Thật có vậy Đại Vương.

Nhà Vua lại hỏi: Đây là ai vậy?

Tát Giá đáp rằng: Bạt Sa Bà La Môn vậy.

Đại Vương lại hỏi: Bạt Sa Bà La Môn có cái gì đặc biệt?

Tát Giá đáp rằng: Bạt Sa Bà La Môn biết được chiêm tinh, biết được thời tiết, biết được ca hát, biết được ánh trăng, biết được động đất, biết được sự hiểm nguy, hiểu rõ thế tục, hiểu biết tướng trạng, thực hành tà dâm cùng với những người nữ khác.

Đại Vương nói rằng: Người trí huệ không làm việc tà dâm.

Tại sao vậy?

Đại Vương nói: Kẻ làm việc tà dâm cả đời này lẫn đời sau bị khổ nạn.

Cho đến Thiên Nhân cũng bị khinh khi và nói kệ như vậy:

Ham muốn người nữ khác

Chẳng xa cảnh giới ác

Không đủ nơi vợ mình

Đời Đời bị chê cười.

Nhà Vua nói: Này Bà La Môn! Trong Thế Giới chúng sanh lại có chúng sanh trí huệ sáng suốt, không loạn tâm, có trí hiểu biết như vậy không?

Tát Giá đáp rằng: Thật có vậy thưa Đại Vương.

Vua hỏi ai vậy?

Tát Giá đáp rằng: Đó là Ba La Đọa Bà La Môn, là kẻ trí tuệ, kẻ sáng suốt, biết đúng lúc hoặc không đúng lúc.

Ông ta không lo buồn.

Đại Vương lại hỏi: Cái gì qua được?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Vì Bà La Môn này ngủ nhiều.

Đại Vương: Người trí huệ không cần ngủ nhiều.

Vì sao vậy?

Đại Vương nói rằng kẻ ngủ nhiều hay mất mát, khi ra đời trí tuệ có lúc có lúc không?

Sau đó nói kệ như vậy:

Nếu ngủ nghỉ nhiều quá

Lười biếng lại thêm lên

Ngủ nghỉ cũng buông lung

Phàm phu mất lợi ích.

Nhà Vua lại hỏi thêm rằng: Này Bà La Môn! Xuất hiện trong đời giữa chúng sanh lại có những chúng sanh thành tựu các pháp môn như vậy có phải không?

Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.

Vua bảo rằng: Ai vậy?

Thưa Đại Vương: Đó là Hắc Vương Tử.

Vua lại hỏi rằng: Hắc Vương Tử cũng có khả năng như vậy sao?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Có nhiều ghen ghét.

Đại Vương bảo rằng: Kẻ trí tuệ không bao giờ có nhiều ghen ghét.

Vì sao vậy?

Đại Vương bảo: Nếu có thành tựu nơi làng xóm mà có tâm ghen ghét thì kẻ đó đối với làng xóm chẳng phải là kẻ hiền. Tay không mà chết.

Chết rồi liền đọa vào Thế Giới ngạ quỷ và nói kệ rằng:

Ghen ghét chứa tâm hẹp

Người kia thành kẻ chủ

Khi chết chỉ tay không

Đọa vào nơi ngạ quỷ.

Đại Vương lại hỏi: Lại có chúng sanh nào mà thành tựu những công đức của pháp có được qua khỏi chăng?

Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.

Đại Vương nói: Ai vậy?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Kiết Quân Vương Tử vậy.

Đại Vương lại hỏi: Kiết Quân Vương Tử có thể qua được chăng?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Kiết Quân Vương Tử rất thích sát sanh.

Đại Vương nói: Kẻ có trí tuệ thật chẳng ưa sát sanh.

Vì sao vậy?

Đại Vương bảo rằng: Sát sanh sẽ chết yểu, phải chết vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

Sau đó nói kệ rằng:

Người ấy mà sát sanh

Sức ít và chết yểu

Chết rồi vào địa ngục

Cho nên đừng hại mạng.

Nhà Vua lại hỏi rằng: Này Bà La Môn! Lại có chúng sanh có trí tuệ sáng suốt, không loạn tâm, hiểu biết, không lo buồn sao?

Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.

Vua nói: Ai vậy?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đây là Vô Úy Vương Tử vậy.

Vua lại hỏi rằng: Vô Úy Vương Tử được qua những gì?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Có nhiều lòng thương hại kẻ khác.

Đại Vương bảo: Kẻ có trí tuệ không nên có lòng thương hại kẻ khác.

Vì sao vậy?

Đại Vương bảo: Có lòng thương hại kẻ khác là kẻ hay tự tại, khi nước có giặc, khó có thể hàng phục vì gặp nhiều việc khó khăn.

Cho nên nói kệ rằng:

Nhiều thương hại kẻ khác

Nếu người kia tự tại

Chẳng thể hàng phục vậy

Chẳng nên chấp vào đó.

Nhà Vua lại hỏi rằng: Trong chúng sanh kia lại có những chúng sanh trí tuệ và tán thán việc quá hoạn sao?

Tát Giá trả lời: Thật có như vậy Đại Vương.

Vua nói: Ai vậy?

Đáp rằng: Đó là Thiên Lực Vương Tử vậy. Có trí tuệ, tán thán trí tuệ và qua được vậy.

Vua nói: Này Bà La Môn! Thiên Lực Vương Tử qua được cái gì?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Thiên Lực Vương Tử uống rượu buông lung.

Đại Vương bảo: Kẻ trí thì không uống rượu.

Vì sao vậy?

Đại Vương bảo rằng: Rượu làm cho mất chánh niệm sinh ra chướng ngại, hay nghi ngờ. Ở trong đời lại mất ý nghĩa.

Sau đó nói kệ rằng:

Hay lấy buông lung

Tất cả việc Vua

Rượu hư tất cả

Lìa Đời mất ý

Đại Vương lại bảo rằng: Này Bà La Môn! Lại có chúng sanh có trí huệ, tán thán trí huệ, qua được khỏi hoạn chăng?

Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.

Vua hỏi: Ai vậy?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Thiên Hắc Vương Tử vậy. Người có trí tuệ, tán thán trí tuệ nên qua khỏi hoạn nạn.

Vua bảo: Này Bà La Môn! Thiên Hắc Vương Tử qua được cái gì?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Thiên Hắc Vương Tử thường hay suy nghĩ lâu.

Đại Vương bảo: Kẻ trí huệ thương không nên suy nghĩ lâu.

Vì sao vậy?

Đại Vương bảo: Kẻ mà hay suy nghĩ thường hay mất đi cuộc sống vốn nó vẫn yên tĩnh.

Cho nên Đại Vương nói: Tất cả những kẻ có trí tuệ thì không nên suy nghĩ lâu.

Sau đó có kệ rằng:

Nếu có suy nghĩ lâu

Việc mất ít an ổn

Đây là điều trang nghiêm

Đề phòng tâm chướng ngại.

Vua lại hỏi rằng: Tát Giá! Lại có chúng sanh trí tuệ, tán thán trí tuệ mà qua khỏi hoạn nạn ư?

Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.

Vua hỏi: Ai vậy?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Đại Quân Vương Tử vậy. Kẻ có trí tuệ, kẻ hay tán thán trí tuệ nên qua khỏi hoạn nạn.

Nhà Vua lại hỏi: Đại Quân Vương Tử qua khỏi được nạn gì?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Qua được khỏi những sự hiềm ác, kiếp mất tài sản còn.

Đại Vương bảo: Kẻ có trí tuệ thường chẳng phải làm thế.

Nên có nói kệ như vậy:

Nếu người chủ keo kiệt

Được gọi chẳng biết đủ

Do đây mà chứa của

Đến đời khác sầu lo.

Vua lại hỏi rằng: Này Tát Giá! Lại có kẻ có trí tuệ, tán thán trí tuệ, tất nhiên qua khỏi được hoạn nạn không?

Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.

Vua hỏi: Ai vậy?

Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Vua Ba Tư Nặc, người có trí tuệ, kẻ tán thán trí tuệ. Nên tự nhiên sẽ qua khỏi khổ nạn.

Vua bảo: Này Bà La Môn! Ba Tư Nặc Vương có gì là qua khỏi khổ nạn?

***

 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần