Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thực Hành Phương Tiện - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
BỒ TÁT THỰC HÀNH PHƯƠNG TIỆN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
PHẦN BA
Văn Thù Sư Lợi! Như Vua Chuyển Luân có những công đức nhỏ gom thành nhiều đức lớn. Có tham có sân có si có thân có kết có sử.
Vì Vua Chuyển Luân này! Tất cả đều không làm nên oán trách.
Vì sao vậy?
Này Văn Thù Sư Lợi! Vị Chuyển Luân Vương này không có sầu não.
Văn Thù Sư Lợi! Như Lai từ khi chuyển bánh xe pháp dùng vô lượng trí tuệ công đức trang nghiêm đầy đủ, chứng được tâm từ bi không dứt, làm những việc bình đẳng thấu suốt như bảy phần bồ đề được thành tựu, vì pháp không quên mà chuyển pháp luân. Bên ngoài có nhiều sự tranh tụng phiền não, không nơi nào là không có.
Văn Thù Sư Lợi nên biết! Nếu thấy nơi Quốc Độ của Phật có ngoại đạo xuất gia thì Thiện Nam Tử nên biết rằng tất cả đều ở yên một nơi! Đây là nơi Phật.
Văn Thù Sư Lợi! Cũng giống như những con thú yếu đuối đứng trước con Sư Tử. Cũng như thế ấy Văn Thù Sư Lợi, các ngoại đạo xuất gia không thể vào nơi cảnh giới của Như Lai được.
Cũng chẳng có thể cùng với Như Lai để tranh luận nữa. Sư Tử lớn kia luôn có mười lực được vô úy, phía trước rống lên, cũng không sao cả. Chỉ trừ khi có sức gia trì của Như Lai.
Này Văn Thù Sư Lợi! Giống như Mặt Trời phóng ra nhiều lưới ánh sáng, tất cả những đám lửa đều yên ổn, tất cả những trân bảo nhờ ánh sáng chiếu cũng như chiếu vào chỗ tối tăm.
Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi! Khi Đức Như Lai chiếu ra ánh sáng, phóng đại quang minh trí tuệ làm cho những ngoại đạo xuất gia cũng được yên ổn, không có nơi nào là không chiếu sáng.
Văn Thù Sư Lợi! Dụ như Thắng Thiết Vương tùy nơi đất mà xuất hiện, tất cả các loại sắt đều không tồn tại, vì sắt hòa nhập vào vậy. Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi.
Nếu có nước Phật nào có Phật xuất thế, phải biết rằng dẫu cho các ngoại đạo có xuất gia đi chăng nữa thì cũng không sao.
Vì sao vậy?
Vì tướng của họ không giống tướng của Phật ở nơi đời.
Này Văn Thù Sư Lợi! Giống như Ý Bảo Vương tùy nơi mà xuất hiện, không sanh tất cả những Ma Ni Bảo giả.
Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi! Như Lai có đại trí tuệ quý giá xuất hiện thì phải biết rằng nơi đó không có sinh ra ngoại đạo.
Này Văn Thù Sư Lợi! Dụ như Bảo Tánh có xuất hiện vàng nơi Diêm Phù Đàn thì nơi ấy không xuất hiện đồ đồng thấp giá v.v…
Như vậy đó Văn Thù Sư Lợi! Nếu Thế Giới nào có Phật xuất hiện thì xứ đó tất nhiên không có ngoại đạo xuất hiện.
Này Văn Thù Sư Lợi! Hãy biết rằng tùy theo phương tiện mà Phật xuất hiện, không muốn cho các ngoại đạo xuất gia.
Văn Thù Sư Lợi! Nay ngươi nên biết Như Lai đã gìn giữ bất khả tư nghì phương tiện cảnh giới. Đây là nhân duyên vậy. Ở trong những Quốc Độ Phật này hiện ra ngoại đạo để xuất gia.
Vì sao làm vậy?
Vì tất cả ngoại đạo mà làm cho giải thoát bất khả tư nghì, từ nơi bát nhã Ba La Mật Đa mà sanh ra, du hí phương tiện, lại cũng chẳng xa rời niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng, giáo hóa chúng sanh đến bờ giải thoát.
Như Lai giữ nhiệm vụ giáo hóa chúng sanh vậy. Cho nên lúc nói pháp có tám ngàn Thiên Tử nương vào Thanh Văn thừa nghe nói một thừa, phát tâm Vô Thượng chánh đạo.
Năm trăm vị Tỳ Kheo được nhất thừa, chứng được tam muội. Một ngàn hai trăm Bồ Tát chứng được vô sanh pháp nhẫn, làm cho ba ngàn Đại Thiên Thế Giới sáu loài chấn động. Từ Cõi Trời Chư Thiên rải hoa sen xanh vàng đỏ trắng, lại cũng có mưa bột chiên đàn.
Trước nơi Phật có trăm ngàn Thiên Tử từ trên không trung phát lời tán thán. Áo Chư Thiên xoay vần trên hư không, tự tại qua lại.
Chư Thiên trỗi nhạc nói lời rằng: Xưa nay chưa từng nghe kinh như thế xuất hiện nơi Đời.
Thế Tôn! Nên làm cho Kinh này lưu hành nơi Diêm Phù Đề, tám trăm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni rời khỏi chỗ ngồi đến trước Phật.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này một lần nữa, nên nói kệ rằng:
Phương tiện cảnh giới bất tư nghì
Văn Thù Sư Lợi đang biết ta
Ta chuyên luyện trì sự giác ngộ
Ta cũng thị hiện như lúc này
Thời tiết thay đổi ta chẳng ngại
Thường hay nhớ đến pháp hay này
Chúng sanh nghe pháp ta qua khỏi
Chúng sanh hết khổ ta chẳng có
Siêng năng luyện tập công đức ấy
Cũng luyện phước điền không bợn nhơ
Ta siêng năng nên chứng bồ đề
Cho nên biết rằng ta chẳng động
Ta từ vô lượng kiếp đến nay
Thành tựu vô lượng trí huệ Phật
Như ta đắc độ, mạng cũng thế
Ở giữa khoảng này chẳng mất đi
Ta phương tiện hiện ra diệt độ
Có thường tưởng vậy như vô thường
Ta nay thị hiện để bỏ đi
Thọ mệnh của ta ở vị lai
Ta chỉ một thừa mà diệt độ
Ta chẳng chứng được sai biệt thừa
Làm như ba thuyết lại ba thừa
Phải biết rằng đây là phương tiện
Có tâm giải đãi và tâm nhỏ
Nghe rồi sanh ra chẳng sợ hãi
Làm thế cho nên chỉ ba thừa
Chỉ có một thừa không có hai
Ta vì chúng sanh mà thuyết pháp
Nhắm vào Phật Đạo là cốt yếu
Chỉ có một thừa nhưng nói ba
Từ nơi thừa này chẳng mất mát
Như giả làm cho qua bờ kia
Đây là trí thị hiện nơi đời
Thế Tôn lại cũng hơn các pháp
Đây chỉ một thừa nói thành ba
Tâm Phật cùng với tâm chúng sanh
Ta lại cũng hay nghĩ sai khác
Ta có ý tốt nơi thừa thấp
Ta lại có các sự kiên định
Trong lưu ly có nhiều chất quý
Tùy theo lúc mà ở yên đó
Tất cả đều cùng một màu sắc
Đó là sắc vàng không phân biệt
Đức Phật trí tốt cũng như thế
Tất cả nước Phật đều chiếu sáng
Tất cả chúng sanh đều một màu
Màu của giác ngộ chẳng khác nhau
Giống như lửa nhỏ khi bị đốt
Dần dần lớn lên thành lửa lớn
Trí tuệ Thanh Văn cũng như thế
Cũng nhờ Chư Phật chiếu công đức
Núi Tu Di cũng lại quay về
Giống với uy đức cùng một màu
Trở về mười lực cũng như thế
Kẻ nhẫn nại sẽ được giác ngộ
Giống như tất cả các cửa ngõ
Thâu thập nhiều loại vật khác nhau
Tất cả các vật đều hòa hợp
Tất cả đều làm một tướng ngọt
Biết đời hiểu đời cũng như vậy
Thị hiện trải qua ba thừa rồi
Tất cả các loại hòa hợp xong
Thành giác ngộ chẳng có tướng khác
Chuyển luân Trời người không sầu muộn
Chẳng có nơi nào riêng hờn dỗi
Ta vì pháp giới mà khuyên bảo
Vì sao lại có cảnh ngoại đạo
Giống như mặt Trời mới mọc lên
Làm yên tất cả ánh sáng sao
Trí huệ phát sanh cũng như vậy
Bởi vì ngoại đạo chẳng chiếu sáng
Tùy theo chỗ mạnh mà nương vào
Tất cả ngoài có chẳng làm được
Nếu có nơi nào Như Lai đến
Nơi ấy chẳng có ngoại đạo làm
Tùy theo chỗ ấy vàng bạc hiện
Chỗ ấy chẳng sanh thêm đồng nữa
Nếu cả đất nước thành giác ngộ
Xứ ấy chẳng có người ngoại đạo
Châu tốt châu xấu không hòa lẫn
Quá khứ vị lai chẳng hòa chung
Phật và ngoại đạo cũng như thế
Ở cùng một nơi chẳng hòa hợp
Thẩm định thần thông cùng tự tại
Tất cả cửa vào trí ngoại đạo
Làm phương tiện kẻ ấy trí huệ
Thị hiện các loại cùng biến hóa
Nghe các phương tiện cảnh giới rồi
Lúc ấy Phật Tử rất hoan hỷ
Sanh ra vui mừng không kể hết
Rải hoa cúng dường nơi Đức Phật
Đất này sáu điệu đều rung động
Trên không trổi nhạc tiếng vang lên
Vạn người Cõi trên đều chắp tay
Khen rằng lành thay Đức Phật nói.
Khi nói kệ này xong Tát Giá Ni Kiền Tử cùng với tám mươi ức đồ đệ của Ni Kiền từ Nam Phương lần lượt tiến đến các Thế Giới khác, hướng về Ưu Thiền Ni thành bốn và cùng với trăm ngàn đại chúng vây quanh trang nghiêm xướng lên rằng: Lúc bấy giờ Vua Chiên Trà Bát Thọ Đề thấy được Tát Giá Ni Kiền Tử đến. Tát Giá sinh tâm vui mừng thanh tịnh, cùng với các Đại Thần trong cung và quyến thuộc, Quốc Vương, thứ dân với bốn loại lính.
Đại Vương uy đức, Đại Vương thần lực. Trăm ngàn cảnh đẹp làm trang nghiêm, tiếng trống và trăm ngàn kỷ nhạc cùng với tràng phan bảo cái trang nghiêm, tất cả đều đến để nghinh tiếp Tát Giá Ni Kiền. Lúc bấy giờ Tát Giá Ni Kiền Tử đưa mắt nhìn Đại Vương Chiên Trà Bát Thụ Đề, nói lời nhỏ nhẹ.
Đại Vương cao quý! Ở nơi nước Ngài chẳng có tướng của sự sợ hãi, không có bệnh hoạn, khổ não, sầu bi. Nước này và âm nhạc rất tốt. Người ác chẳng có, giữ cho đẹp đẽ, như vậy nước này chẳng loạn ly.
Thưa Đại Vương! Nơi nước này chư vị Sa Môn, Bà La Môn có an lạc chăng?
Đại Vương có dùng luật pháp mà trị nước không?
Đại Vương có làm hại các chúng sanh như chim cá hay không?
Vì sao vậy?
Đại Vương nên biết! Tất cả chúng sanh đều yêu mạng sống của chúng.
Cho nên Đại Vương! Nên giữ giới không sát sanh và đừng nên trộm cắp thì đời sống tại đó sẽ được sung túc. Không tà dâm, tự biết đủ với nhan sắc của vợ nhà. Cuối cùng là không vọng ngữ mà nói lời chân thật. Cũng chẳng nói lưỡi đôi chiều. Không nói ác khẩu mà nói lời nhu hòa. Không nói lời trau chuốt mà nói lời thành thật. Hãy vì kẻ khác mà bố thí thì ít sanh tâm tham lam.
Này Đại Vương! Hãy nên lìa xa sự sân hận. Hãy lấy lòng từ để trang nghiêm thân, khẩu, ý.
Này Đại Vương! Không nên sanh tà kiến, mà phải thực hành chánh kiến.
Này Đại Vương! Cũng không nên sống hạnh buông lung. Hay quán sát về sự vô thường.
Đại Vương nên biết! Đời sống ngắn ngủi và kế tiếp đời khác. Cho nên Đại Vương phải nên lo cho đời sau và hãy tin vào nghiệp báo.
Nên nói kệ như vậy:
Con người thường đừng buông lung
Hộ trì chỗ ở đừng thay đổi
Kẻ nào buông lung vào đường dữ
Nếu không buông lung sanh đường lành
Lại chẳng thâu ngắn mạng chúng sanh
Tất cả chúng sanh yêu mạng sống
Kẻ trí chẳng nên hại mạng chúng
Thương giúp chúng sanh như thân mình
Hãy nên xa lìa sự trộm cắp
Cũng đừng nên nói lời chẳng thật
Thường hay giúp đỡ nói lời ngay
Đại Vương ngày sau sanh chỗ tốt
Nên dùng ngôn ngữ dễ vui nghe
Chẳng nên nói lời thô bạo quá
Thường nói lời hay và diệu hiền
Đại Vương chẳng nên nói hai lưỡi
Ngài cũng chẳng nên nói ỷ ngữ
Mà phải tùy thuận để nói ra
Lìa các sân hận và lời ác
Như voi lớn kia sanh đường lành
Ngài cũng chẳng làm việc tà dâm
Được vậy vợ Ngài chẳng móng tâm
Hãy nên biết đủ nơi vợ mình
Sẽ được sanh vào nơi đường tốt
Đại Vương chớ nên thấy không đúng
Hãy nên thấy nghe chỗ chân chính
Mà nên thực hành các thuận pháp
Đại Vương sanh thêm nhiều niềm vui
Bậc Sa Môn Bà La Môn thảy
Cũng lại hiếu thuận nơi cha mẹ
Xa rời đường ác qua đi rồi
Sẽ nhận niềm vui nơi Cõi Trời.
Đây là lời của Tát Giá Ni Kiều Tử nói pháp không phóng dật cho Đại Vương, khuyên Bát Thọ Đề Vương rồi, lúc bấy giờ Chiên Trà Bát Thọ Đề Vương hướng đến Tát Giá Ni Kiền Tử nói những lời tốt đẹp an lạc.
Tự nói rằng: Nếu không làm những việc như thế thì như Bà La Môn đã đến nhà ta.
Vì sao vậy?
Ta nay khuyến thỉnh chư vị cùng quyến thuộc và muốn thiết đãi cơm nước.
Ni Kiền Tử nói rằng: Hay thay! Hay thay! Hãy cứ thế mà làm!
Vì sao vậy?
Này Đại Vương! Ta đạt đến đạo và đã xa rời sự đói khát.
Đại Vương cứ như vậy, theo lời mà thỉnh.
Lúc bấy giờ Đại Vương đi sau quyến thuộc của Tát Giá Ni Kiền Tử, trước đó vào Cung Vua. Khi vào rồi Tát Giá Ni Kiền Tử ngồi xuống và các Ni Kiền khác tùy theo thứ lớp mà ngồi.
Lúc bấy giờ Đức Vua với lòng từ tâm cung kính tự tay mình lấy đồ ăn cho Tát Giá Ni Kiền và các quyến thuộc.
Sau khi ăn no rồi, lúc bấy giờ Đức Vua mới suy nghĩ như thế này: Ta nay nên hỏi một ít nơi Tát Giá Ni Kiền Tử rằng ông ta có kính trọng Đức Như Lai chăng?
Sau khi Vua nghĩ như thế rồi, lấy gối ngồi quỳ phía trước Ni Kiền Tử và nói lời như thế này: Này Bà La Môn, ta có một ít luận tranh. Nếu nghe mà hứa thì ta sẽ hỏi, vì ta mà nói.
Tát Giá Ni Kiền Tử bảo Đại Vương rằng: Tùy theo ý của Vua muốn hỏi cái gì thì cứ hỏi, ta sẽ trả lời theo sự hiểu của ta.
Vua nghe lời ấy rồi liền hỏi: Này Bà La Môn! Trong Thế Giới này có nhiều chúng sanh có trí tuệ hiểu được rõ ràng, tâm không loạn động có nhiều chăng?
Tát Giá đáp rằng: Thật có vậy Đại Vương.
Nhà Vua lại hỏi: Đây là ai vậy?
Tát Giá đáp rằng: Bạt Sa Bà La Môn vậy.
Đại Vương lại hỏi: Bạt Sa Bà La Môn có cái gì đặc biệt?
Tát Giá đáp rằng: Bạt Sa Bà La Môn biết được chiêm tinh, biết được thời tiết, biết được ca hát, biết được ánh trăng, biết được động đất, biết được sự hiểm nguy, hiểu rõ thế tục, hiểu biết tướng trạng, thực hành tà dâm cùng với những người nữ khác.
Đại Vương nói rằng: Người trí huệ không làm việc tà dâm.
Tại sao vậy?
Đại Vương nói: Kẻ làm việc tà dâm cả đời này lẫn đời sau bị khổ nạn.
Cho đến Thiên Nhân cũng bị khinh khi và nói kệ như vậy:
Ham muốn người nữ khác
Chẳng xa cảnh giới ác
Không đủ nơi vợ mình
Đời Đời bị chê cười.
Nhà Vua nói: Này Bà La Môn! Trong Thế Giới chúng sanh lại có chúng sanh trí huệ sáng suốt, không loạn tâm, có trí hiểu biết như vậy không?
Tát Giá đáp rằng: Thật có vậy thưa Đại Vương.
Vua hỏi ai vậy?
Tát Giá đáp rằng: Đó là Ba La Đọa Bà La Môn, là kẻ trí tuệ, kẻ sáng suốt, biết đúng lúc hoặc không đúng lúc.
Ông ta không lo buồn.
Đại Vương lại hỏi: Cái gì qua được?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Vì Bà La Môn này ngủ nhiều.
Đại Vương: Người trí huệ không cần ngủ nhiều.
Vì sao vậy?
Đại Vương nói rằng kẻ ngủ nhiều hay mất mát, khi ra đời trí tuệ có lúc có lúc không?
Sau đó nói kệ như vậy:
Nếu ngủ nghỉ nhiều quá
Lười biếng lại thêm lên
Ngủ nghỉ cũng buông lung
Phàm phu mất lợi ích.
Nhà Vua lại hỏi thêm rằng: Này Bà La Môn! Xuất hiện trong đời giữa chúng sanh lại có những chúng sanh thành tựu các pháp môn như vậy có phải không?
Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.
Vua bảo rằng: Ai vậy?
Thưa Đại Vương: Đó là Hắc Vương Tử.
Vua lại hỏi rằng: Hắc Vương Tử cũng có khả năng như vậy sao?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Có nhiều ghen ghét.
Đại Vương bảo rằng: Kẻ trí tuệ không bao giờ có nhiều ghen ghét.
Vì sao vậy?
Đại Vương bảo: Nếu có thành tựu nơi làng xóm mà có tâm ghen ghét thì kẻ đó đối với làng xóm chẳng phải là kẻ hiền. Tay không mà chết.
Chết rồi liền đọa vào Thế Giới ngạ quỷ và nói kệ rằng:
Ghen ghét chứa tâm hẹp
Người kia thành kẻ chủ
Khi chết chỉ tay không
Đọa vào nơi ngạ quỷ.
Đại Vương lại hỏi: Lại có chúng sanh nào mà thành tựu những công đức của pháp có được qua khỏi chăng?
Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.
Đại Vương nói: Ai vậy?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Kiết Quân Vương Tử vậy.
Đại Vương lại hỏi: Kiết Quân Vương Tử có thể qua được chăng?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Kiết Quân Vương Tử rất thích sát sanh.
Đại Vương nói: Kẻ có trí tuệ thật chẳng ưa sát sanh.
Vì sao vậy?
Đại Vương bảo rằng: Sát sanh sẽ chết yểu, phải chết vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
Sau đó nói kệ rằng:
Người ấy mà sát sanh
Sức ít và chết yểu
Chết rồi vào địa ngục
Cho nên đừng hại mạng.
Nhà Vua lại hỏi rằng: Này Bà La Môn! Lại có chúng sanh có trí tuệ sáng suốt, không loạn tâm, hiểu biết, không lo buồn sao?
Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.
Vua nói: Ai vậy?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đây là Vô Úy Vương Tử vậy.
Vua lại hỏi rằng: Vô Úy Vương Tử được qua những gì?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Có nhiều lòng thương hại kẻ khác.
Đại Vương bảo: Kẻ có trí tuệ không nên có lòng thương hại kẻ khác.
Vì sao vậy?
Đại Vương bảo: Có lòng thương hại kẻ khác là kẻ hay tự tại, khi nước có giặc, khó có thể hàng phục vì gặp nhiều việc khó khăn.
Cho nên nói kệ rằng:
Nhiều thương hại kẻ khác
Nếu người kia tự tại
Chẳng thể hàng phục vậy
Chẳng nên chấp vào đó.
Nhà Vua lại hỏi rằng: Trong chúng sanh kia lại có những chúng sanh trí tuệ và tán thán việc quá hoạn sao?
Tát Giá trả lời: Thật có như vậy Đại Vương.
Vua nói: Ai vậy?
Đáp rằng: Đó là Thiên Lực Vương Tử vậy. Có trí tuệ, tán thán trí tuệ và qua được vậy.
Vua nói: Này Bà La Môn! Thiên Lực Vương Tử qua được cái gì?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Thiên Lực Vương Tử uống rượu buông lung.
Đại Vương bảo: Kẻ trí thì không uống rượu.
Vì sao vậy?
Đại Vương bảo rằng: Rượu làm cho mất chánh niệm sinh ra chướng ngại, hay nghi ngờ. Ở trong đời lại mất ý nghĩa.
Sau đó nói kệ rằng:
Hay lấy buông lung
Tất cả việc Vua
Rượu hư tất cả
Lìa Đời mất ý
Đại Vương lại bảo rằng: Này Bà La Môn! Lại có chúng sanh có trí huệ, tán thán trí huệ, qua được khỏi hoạn chăng?
Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.
Vua hỏi: Ai vậy?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Thiên Hắc Vương Tử vậy. Người có trí tuệ, tán thán trí tuệ nên qua khỏi hoạn nạn.
Vua bảo: Này Bà La Môn! Thiên Hắc Vương Tử qua được cái gì?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Thiên Hắc Vương Tử thường hay suy nghĩ lâu.
Đại Vương bảo: Kẻ trí huệ thương không nên suy nghĩ lâu.
Vì sao vậy?
Đại Vương bảo: Kẻ mà hay suy nghĩ thường hay mất đi cuộc sống vốn nó vẫn yên tĩnh.
Cho nên Đại Vương nói: Tất cả những kẻ có trí tuệ thì không nên suy nghĩ lâu.
Sau đó có kệ rằng:
Nếu có suy nghĩ lâu
Việc mất ít an ổn
Đây là điều trang nghiêm
Đề phòng tâm chướng ngại.
Vua lại hỏi rằng: Tát Giá! Lại có chúng sanh trí tuệ, tán thán trí tuệ mà qua khỏi hoạn nạn ư?
Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.
Vua hỏi: Ai vậy?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Đại Quân Vương Tử vậy. Kẻ có trí tuệ, kẻ hay tán thán trí tuệ nên qua khỏi hoạn nạn.
Nhà Vua lại hỏi: Đại Quân Vương Tử qua khỏi được nạn gì?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Qua được khỏi những sự hiềm ác, kiếp mất tài sản còn.
Đại Vương bảo: Kẻ có trí tuệ thường chẳng phải làm thế.
Nên có nói kệ như vậy:
Nếu người chủ keo kiệt
Được gọi chẳng biết đủ
Do đây mà chứa của
Đến đời khác sầu lo.
Vua lại hỏi rằng: Này Tát Giá! Lại có kẻ có trí tuệ, tán thán trí tuệ, tất nhiên qua khỏi được hoạn nạn không?
Tát Giá đáp rằng: Thật có như vậy Đại Vương.
Vua hỏi: Ai vậy?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó là Vua Ba Tư Nặc, người có trí tuệ, kẻ tán thán trí tuệ. Nên tự nhiên sẽ qua khỏi khổ nạn.
Vua bảo: Này Bà La Môn! Ba Tư Nặc Vương có gì là qua khỏi khổ nạn?
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Lòng Ham Muốn Dẫn đến đau Khổ
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tát Giá
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Bảy - Phẩm Trì Giới
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Hai - Kinh để Dành Sữa
Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười - Kim Cang Tạng Hàng Ma Pháp
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Miêu Ly
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Bốn Mươi Sáu - Kinh Trộm Trâu ăn Thịt