Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Ba - Quán Tướng - Tập Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
QUÁN PHẬT TAM MUỘI HẢI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẨM BA
QUÁN TƯỚNG
TẬP TÁM
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói lời đó xong, liền ở trong rốn phát ra đóa hoa sen lớn. Đóa sen lớn ấy hóa thành đài ánh sáng. Ở trong đài ấy có trăm ngàn vô số Thanh Văn Tỳ Kheo Như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên… các vị ấy ở trong đài ánh sáng của Phật, với thần thông tự tại tạo ra mười tám thứ thần biến.
Những người nữ thấy rồi, lòng phát sinh hoan hỷ, ngay tức thời liền dùng lửa trí tuệ đốt cháy tan tành hai mươi ức kết sử, đắc đạo Tu Đà Hoàn. Các Ưu Bà Di đã được đạo rồi, thấy sắc thân Đức Phật trang nghiêm vi diệu, nhưng chẳng thấy được ánh sáng tướng bạch hào của Đức Phật.
Đức Phật nói với Vua cha rằng: Đùa giỡn, ác khẩu… thì thậm chí đã được đạo rồi mà sự nhìn thấy vẫn chẳng sáng. Vậy nên mọi người phải siêng năng giữ gìn nghiệp miệng, chuyên tâm chính ý quán tam muội Phật, vì thấy Phật thì được vô lượng phước.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn làm cho đại chúng thấy sắc thân Phật tỏ rõ phân minh nên Đức Phật liền biến hóa ngôi Tinh Xá thành như núi ngọc trắng, cao đẹp lớn nhỏ giống như núi Tu Di, có hàng trăm ngàn khám thờ, hang động. Ở trong những khám thờ, hang động, ảnh hiện lên những hình tượng như Đức Phật không khác.
Mặt đất trước Đức Phật có hoa sen lớn. Hoa ấy có ngàn cánh. Mỗi cánh có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có một ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật có một ngàn đệ tử làm thị giả.
Đức Phật bảo Ngài A Nan rằng: Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể cắt đứt mọi việc, ném bỏ các ác, giữ tâm chánh niệm dể tư duy ánh sáng của Phật thì cho dù Phật chẳng còn hiện tại, cũng gọi là thấy Phật.
Do thấy Phật nên tất cả các ác đều được tiêu trừ. Tùy theo sở nguyện của họ mà ở đời vị lai sẽ thành ba loại đạo Bồ Đề.
Đức Phật bảo A Nan: Người quan sát như thế này thì gọi là chánh quán, nếu quan sát khác đi thì gọi là tà quán.
Đức Phật nói với Vua cha rằng: Sao gọi là quán tướng phóng ra ánh sáng thường của Đức Như Lai?
Hôm nay Như Lai nên vì những người phàm phu ở đời vị lai thị hiện một ít ánh sáng! Những phàm phu kia sẽ học sự quán tưởng đó. Người quán như vậy thì cũng như ngày hôm nay thấy tướng ánh sáng của Phật không có khác.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng nơi nhục kế. Ánh sáng ấy có hàng ngàn màu. Mỗi màu tạo ra tám muôn bốn ngàn tia. Mỗi tia có tám muôn bốn ngàn vị Hóa Phật vi diệu. Thân của những Hóa Phật ấy nhiều vô lượng vô biên.
Trên đỉnh Hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Từng ánh sáng, từng ánh sáng tiếp theo nhau đến vô lượng Thế Giới ở phương trên. Ở Thế Giới phương trên, có những hóa Bồ Tát nhiều như mây bụi trần từ Hư Không hạ xuống xung quanh các Đức Phật.
Khi ánh sáng này hiện lên thì các Đức Phật của Thế Giới nhiều như bụi trần trong mười phương cũng đều được thấy. Ánh sáng này chiếu thẳng lên đỉnh đầu của Chư Phật. Chư Phật phóng ra ánh sáng, ánh sáng ấy lại chiếu xuống đỉnh của Phật Thích Ca Văn.
Đức Phật bảo A Nan rằng: Chúng sinh muốn quán tưởng ánh sáng nơi nhục kế của Phật Thích Ca Văn thì phải quán tưởng như vậy. Người thực hành sự quán tưởng đó, nếu tâm chẳng thông lợi thì trong mơ sẽ được thấy.
Tuy nhiên, tâm tưởng đó có thể tiêu trừ vô lượng trăm ngàn tội nặng. Người quán như vậy thì thân hiện tại chắc chắn được thấy các vị Đại Bồ Tát. Thấy Bồ Tát nên nghe được Bồ Tát nói pháp. Nghe nói pháp nên được Đà La Ni. Đà La Ni ấy gọi là Toàn ức trì ghi nhớ tất cả. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Đức Phật nói với Vua cha rằng: Sao gọi là quán ánh sáng giữa hai chân mày của Như Lai?
Hôm nay Như Lai vì các chúng sinh đời sau này nên hiện một ít ánh sáng của tướng bạch hào.
Khi nói lời nói đó, giữa hai chân mày của Đức Phật phóng ra ánh sáng tướng Đại Nhân bạch hào. Ánh sáng ấy chia làm tám muôn bốn ngàn tia. Mỗi tia cũng có tám muôn bốn ngàn màu, soi khắp mười phương vô lượng Thế Giới. Mỗi màu sáng hóa ra một núi vàng. Mỗi núi vàng có vô lượng khám thờ, hang động. Trong mỗi hang động có một vị hóa Phật ngồi kiết già nhập vào thiền định sâu xa, có trăm ngàn đại chúng Thanh Văn Bồ Tát làm quyến thuộc.
Trong các hang động có các Hóa Phật, các Đức Phật đó đều phóng ra ánh sáng tướng Đại Nhân bạch hào, chiếu đến khắp mười phương vô lượng Thế Giới khiến tất cả mọi nơi đều như màu vàng ròng. Trên đất màu vàng có hoa sen vàng. Trên mỗi hoa sen vàng có các vị Hóa Phật đều cùng danh hiệu là Thích Ca Văn.
Giữa hai chân mày của các Đức Phật cũng phóng ra ánh sáng này. Ánh sáng ấy soi khắp mười phương Thế Giới giống như trăm ngàn ức núi chúa Tu Di cùng hợp về một chỗ. Các núi Tu Di ánh hiện các Đức Phật. Thân Phật cao lớn ngang bằng núi. Ánh sáng giữa hai chân mày của các vị Hóa Phật đó vòng quanh các vị Hóa Phật đủ bảy vòng rồi trở lại nhập vào giữa hai chân mày của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Khi ánh sáng này nhập vào lỗ chân lông thân Phật thì trong mỗi lỗ chân lông có một vị hóa tượng. Trong lỗ chân lông của thân mỗi hóa tượng hóa thành tám muôn bốn ngàn tượng vi diệu. Đó đều là việc hiếm thấy của tất cả chúng sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới.
Đó gọi là ánh sáng của một vẻ đẹp trong tám mươi vẻ đẹp của Như Lai. Ánh sáng của tám mươi vẻ đẹp tùy hình như vậy, nói chẳng thể hết. Như Lai chỉ hiện chút ít ánh sáng bạch hào. Trong các vị tướng của Vua cha, có tám ngàn người xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh.
Đức Phật bảo A Nan rằng: Ánh sáng tướng bạch hào của Như Lai, trong các Kinh Điển Phật đã giảng nói rõ. Ánh sáng nhiệm mầu như vậy chỉ có Phật mới thấy được của Phật, còn Bồ Tát ở Địa thứ mười chẳng thấy rõ ràng. Vậy nên ở đây chỉ nói một phần ít. Nói phần ít là nói vì người phàm phu.
Sau khi Phật diệt độ, người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán. Ánh sáng này trừ diệt tội như vừa nói ở trên. Chỉ có người thấy ánh sáng, tâm mới được tỏ rõ, thấy hàng trăm ức Đức Phật. Thấy được tướng bạch hào chính là sự thấy của tâm tưởng.
Sao gọi là quán tưởng tướng trán rộng bằng phẳng của Như Lai?
Trên mặt Như Lai có tướng ba, tướng mép tóc… các tướng như vậy, trong mỗi tướng đều phát ra ánh sáng vàng ròng. Ánh sáng màu vàng ấy hóa thành giường vàng ròng. Trên mỗi giường vàng ấy có một ngàn vị Bồ Tát, Câu lâu tôn đà là vị đầu tiên đến nơi giường.
Một ngàn vị Bồ Tát đều phóng ra ánh sáng, ngồi trên giường vàng. Như vậy có trăm ức ngàn vạn Bồ Tát, trăm ức ngàn vạn giường vàng. Trên giường vàng ấy đều có màn báu. Mỗi màn báu có hàng ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa thành hàng ngàn cờ báu. Trên mỗi lá cờ có hàng ngàn vạn lọng báu.
Dưới mỗi lọng báu có các phướn báu. Trong các phướn báu có vô lượng vị Hóa Phật. Các vị Hóa Phật đó đều nói về khổ, không, vô thường, vô ngã.
Tất cả các vị Hóa Phật, khi nói kệ này thì Đức Phật Thích Ca Văn, thân cao lớn một trượng sáu, ở trước mặt hành giả, đưa tay phải lên, nói rằng: Hay thay! Hay thay! Này Thiện Nam! Ông có thể quan sát tướng tốt của các Đức Phật.
Chúng tôi đời trước hành đạo Bồ Tát cùng ông không khác! Hôm nay ông có thể quán tưởng cảnh giới các Đức Phật. Cảnh giới này chỉ là sự phát sinh của vọng tưởng nơi tâm các ông. Nói lời nói đó xong, Phật liền biến mất. Những ánh sáng trên trán lại sáng rỡ.
Ánh sáng ấy lan tỏa ra trăm ngàn ức luồng. Mỗi luồng sáng chiếu soi mặt các vị Bồ Tát ngồi trên giường báu. Mặt những vị Bồ Tát kia cũng phát ra ánh sáng chiếu soi Phật Thích Ca Văn. Khi hiện ra tướng này, hành giả quan sát mặt Phật tỏ rõ không nghi ngờ.
Đức Phật bảo A Nan rằng: Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật có thể quán tưởng để thấy mặt Phật đúng như thật, giống như khi ta còn tại thế không khác. Người quán tưởng như vậy, trừ được tội sinh tử trong một ức kiếp. Đời sau sinh ra ở đâu cũng được diện kiến các Đức Phật, sinh vào nhà các Đức Phật, làm quyến thuộc của các Đức Phật, Bồ Tát. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng mũi phát ra ánh sáng của Như Lai?
Mũi phát ra ánh sáng chia thành bốn tia, đi lên nhập vào mắt Phật, lông mày Phật, lông mi Phật, rồi phát ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy kéo đến dày đặc như hình rồng, voi, soi khắp vô lượng Thế Giới mười phương rồi nhập vào trong mắt của các Đức Phật. Khi hiện tướng này thì mười phương vô cùng sáng rỡ.
Khi đó, các hành giả thấy đất và Hư Không của Thế Giới ở mười phương Chư Phật rất đông nhiều. Mắt, lông mày, lông mi, lỗ mũi của mỗi Đức Phật cũng đều phóng ra ánh sáng lớn như vậy. Hai luồng ánh sáng của mắt Phật soi vào tất cả mắt của các Đức Phật. Rồi chúng ở trong hư không hóa thành đài ánh sáng. Trên đài ánh sáng ấy toàn là mây ánh sáng, mây ánh sáng xanh trắng trong Thế Giới không thể sánh bằng.
Trong ánh sáng xanh có vị hóa Phật màu xanh. Trong ánh sáng trắng có vị Hóa Phật màu trắng. Hai Đức Phật màu xanh, trắng này, trái, phải phân minh, có ánh sáng màu hàng trăm châu báu làm mây cho các Đức Phật ấy như người có thần thông bay lướt đi trong đám mây. Các lỗ chân lông của thân Phật giống như cây hoa.
Mỗi một cây hoa cao lên đến cõi Phạm, các cánh hoa có trăm ngàn ức Thanh Văn Tỳ Kheo. Mỗi Tỳ Kheo mặc áo ngàn mảnh có ngàn màu. Trong mỗi màu có trăm ngàn vị Hóa Phật đều thuần một màu vàng. Các vị Tỳ Kheo đó bay vọt thân trong mây theo sau Đức Phật, như rồng, voi lớn đi thì con của chúng đi theo.
Đức Phật bảo A Nan rằng: Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có thể chính niệm quán tưởng ánh sáng mắt Phật thì nghiệp chướng nặng nề của đời hiện tại liền được tiêu trừ, ở đời vị lai thường được thấy Phật, chẳng lìa khỏi Mặt Trời Phật.
Tuy ở trong thai mẹ nhưng thường nhập vào tam muội, khi ở tại thai mẹ, thấy Chư Phật khắp mười phương đều phóng ra ánh sáng mắt soi đến thân mình, khi trong vỏ trứng thai thường thọ trì pháp vi diệu, huống là đã ra bên ngoài. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Mũi phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy chiếu khắp mười phương Thế Giới. Mỗi ánh sáng ấy hóa thành dòng nước lớn. Dòng nước ấy ở giữa hư không, chảy vào các ánh sáng. Khi nước này chảy vào thì tất cả ánh sáng lại càng hiển hiện rõ. Mỗi vùng sáng sinh ra núi pha lê.
Mỗi vùng núi pha lê sinh ra hoa bảy báu. Trên đài hoa ấy vọt trào ra các loại nước. Nước ấy màu vàng giống như lá cờ bằng vàng. Bên trong cờ vàng ấy có trăm ngàn vạn vô lượng hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật, thân cao lớn một trượng sáu. Trong lỗ chân lông của thân Phật có tám muôn bốn ngàn màu sắc báu thượng diệu. Trong các màu sắc báu lại phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy vi diệu có các màu nhiều như cát Sông Hằng.
Đức Phật bảo A Nan: Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì tiêu trừ được nghiệp ác rất nặng của một ngàn kiếp, đời sau sinh ra, tâm không chấp thủ, chẳng ở trong bào thai, luôn luôn hóa sinh, đã hóa sinh rồi, ánh sáng của thân đầy đủ, chẳng hề rời xa các Đức Phật. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tưởng ánh sáng khuôn mặt của Như Lai?
Ánh sáng ấy màu trắng giống như núi báu, trong ngoài đều thanh tịnh. Bên trong núi báu có vô lượng vị Hóa Phật màu vàng ròng. Khuôn mặt của các vị Hóa Phật cũng phóng ra ánh sáng. Ánh sáng ấy năm màu soi khắp mười phương, rồi nhập vào khuôn mặt của các Đức Phật.
Khi hiện tướng này, hành giả đi đứng ngồi nằm luôn luôn nghe Đức Như Lai nói về bốn niệm xứ: Thân, thọ, tâm, pháp, đồng thời nghe nói cảnh giới, khiến cho hành giả nghe rồi được ghi nhớ, nhắm mắt tư duy. Nhờ năng lực của ánh sáng này nên hành giả được pháp bốn niệm xứ.
Các Đức Phật khắp mười phương và Phật Thích Ca Văn ở trong tam muội, đều duỗi tay phải xoa đỉnh đầu hành giả, nói rằng: Hay thay! Hay thay! Này Thiện Nam! Ông có thể chân thật tu hành định niệm Phật. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tướng tai của Như Lai?
Tai Phật phát ra năm ánh sáng. Ánh sáng ấy có một ngàn màu. Mỗi màu có một ngàn vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật phóng ra một ngàn ánh sáng. Ánh sáng như vậy soi khắp vô lượng Thế Giới ở mười phương, rồi hóa thành một đóa hoa. Hoa ấy rất lớn, đo lường chẳng thể biết, ngoại trừ thần lực tâm Phật, không ai có thể biết.
Trong hoa sen đó, có trăm ngàn vạn ức vô lượng Cõi Phật đều hiện ra và có trăm ngàn vạn ức các Đại Bồ Tát ngồi trên một tua hoa, tua hoa chẳng lớn, Bồ Tát chẳng nhỏ mà cũng chẳng trở ngại nhau. Những Bồ Tát như vậy, trái tai đều thòng xuống như sen vàng treo chỗ ánh sáng Mặt Trời. Ở trong tai lại sinh ra năm luồng ánh sáng. Khi tướng này hiện thì lông trong tai Phật như cây của Đế Thích, mọi người đều rất ưa nhìn.
Đức Phật bảo A Nan: Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật quán tưởng như vậy thì thường nghe trăm ức ngàn Đức Phật và các vị Bồ Tát nói các pháp vi diệu, chẳng bị hư hoại nhĩ căn. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tướng cổ của Như Lai?
Tướng cổ phát ra hai luồng ánh sáng. Ánh sáng ấy có một vạn màu, soi khắp tất cả Thế Giới ở mười phương. Có các chúng sinh căn lành thuần thục gặp ánh sáng ấy thì giác ngộ được mười hai nhân duyên, thành Bích Chi Phật. Ánh sáng này soi cổ các Bích Chi Phật.
Khi tướng này hiện, hành giả thấy khắp tất cả những Bích Chi Phật trong mười phương ném bát lên hư không, tạo thành mười tám sự biến hóa. Dưới mỗi một chân của các Bích Chi Phật đều có văn tự.
Văn tự ấy diễn nói mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não.
Một chữ có một ánh sáng, một ánh sáng có mười hai âm thanh, một âm thanh nói khổ, không, vô thường, vô ngã, một âm thanh diễn nói mười hai nhân duyên. Như vậy, trong ánh sáng dưới chân các vị Bích Chi Phật đều có chữ đó, nghịch thuận qua lại đến mười hai lần. Đó gọi là căn bản sinh tử.
Ánh sáng này chiếu soi các vị Bích Chi Phật rồi thì trở lại cổ Phật. Người quán tưởng như vậy thì chẳng sinh trong loài người mà sinh lên Cõi Trời Đâu Suất, được gặp Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ được nghe quý Ngài nói pháp vi diệu. Nghe pháp rồi, thân tâm hoan hỷ, học theo các Bồ Tát quán pháp duyên khởi. Người quán tưởng như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi thì gọi là tà quán.
Sao gọi là quán tướng xương khuyết bồn đầy đặn của Như Lai?
Ánh sáng của tướng đầy đặn soi khắp mười phương tạo thành màu hổ phách. Chúng sinh nào gặp ánh sáng này thì tự nhiên phát tâm cầu đạo Thanh Văn. Những Thanh Văn đó thấy ánh sáng này chia làm mười tia, mỗi tia có một ngàn màu. Mười ngàn ánh sáng màu, mỗi ánh sáng có một vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có bốn vị Tỳ Kheo làm thị giả.
Mỗi vị Tỳ Kheo đều nói khổ, không, vô thường, vô ngã, phân biệt bốn đế, nói ý nghĩa của tám quả chứng, nói tướng của bốn quả vị, nói ba Tam Muội… khiến cho những chúng sinh kia ở trong pháp này cầu pháp xuất gia, xuất gia chẳng bao lâu đều thành A La Hán.
Như vậy ánh sáng soi khắp đỉnh đầu của các La Hán trong mười phương. Khi soi đỉnh đầu các vị ấy, như người cầm bình thuốc nước rót vào đỉnh đầu. Hình trạng sắc mạo ánh sáng ấy giống như đề hồ, nhập vào đỉnh đầu rồi, xuyên suốt hiện bày rõ. Bấy giờ, hành giả thân tâm yên ổn. Tâm ấy điềm nhiên không có các ý tưởng ác, chẳng thấy tướng mạo của các kết sử.
Như vậy bỗng nhiên thành A La Hán. Ánh sáng này lại biến thành tán che màu vàng nhiều vô số. Trong mỗi tán che có trăm ngàn bộ bảy Đức Phật. Mỗi bảy Đức Phật có bốn vị Tỳ Kheo làm thị giả. Mỗi vị Tỳ Kheo Nhập vào bốn đại định.
Trong bốn đại định đều hiện tướng mạo của tất cả các kết sử: Tám vạn hộ trùng đắp đổi mà sinh ra, các loài trùng nhỏ cũng đều sinh theo. Khi tướng này hiện thì trước tiên lửa lớn nổi dậy. Lửa lớn nổi dậy bắt đầu như hạt cải, từ lỗ chân lông phát ra rồi sau lớn lên dần dần, thiêu đốt khắp các thân.
Thân như lửa tụ lại, các trùng kêu rống như tiếng Sư Tử. Khi tiếng này phát ra, tâm hành giả sợ hãi mê muội, ngã lăn ra đất. Ra khỏi định, hành giả thấy thân như lửa đồng hoang đi bên cây bị đốt cháy. Khi tướng này hiện, hành giả phải khởi lên tâm tạo ra một dược tưởng tư tưởng về thuốc.
Trước hết khởi tưởng về thân, tưởng về thân đã thành thì mở đỉnh đầu khiến cho rỗng không, rồi khởi tưởng về Phạm Vương, khởi tưởng về Đế Thích, khởi tưởng Chư Thiên, tay cầm bình báu, ý tưởng đem thuốc rót vào. Khi thuốc đã vào đỉnh thì lưu thông khắp thân thể và trong các mạch máu, thấy mạch và thân như ống lưu ly, chỉ thấy các trùng như hoa héo rụng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - phẩm Một - Phẩm Tựa - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Chín - Phẩm Vô Trụ - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh đạo
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm Khen Ngợi Bồ Tát
Phật Thuyết Kinh Phật Danh - Phần Ba Mươi Tám
Phật Thuyết Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới - Phần Hai - Thích Ca Mâu Ni phật