Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thực Hành Phương Tiện - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
BỒ TÁT THỰC HÀNH PHƯƠNG TIỆN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
PHẦN BỐN
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Vua Ba Tư Nặc có nhiều việc ăn uống.
Nhà Vua bảo: Phàm kẻ có trí tuệ thì chẳng nên ăn nhiều.
Vì sao vậy?
Đại Vương bảo: Nếu ăn uống nhiều thì thân thể nặng nề, khó tiêu.
Sau đó nói kệ rằng:
Người chủ dùng nhiều.
Lười biếng thân nặng.
Lại hại trí tuệ
Sắc diện không tốt.
Đại Vương lại hỏi rằng: Này Bà La Môn! Trong đời này có kẻ trí tuệ, ca ngợi trí tuệ có tự nhiên qua khỏi hoạn nạn chăng?
Tát Giá đáp rằng: Thật có vậy Đại Vương.
Vua bảo: Ai vậy?
Đáp rằng: Chính Đại Vương vậy. Trong thế gian là kẻ trí, kẻ tán thán trí tuệ cho nên cũng qua khỏi.
Vua nói: Này Bà La Môn! Ta qua được gì?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Ngài không có nhiều tính ác nên chẳng gặp thú hung dữ.
Đại Vương nói: Phàm là kẻ có trí không nhất thiết phải như vậy. Người chẳng có được bao nhiêu. Cho đến cha mẹ cũng chẳng thích nghi, hà huống là chúng sanh.
Đại Vương bảo: Nếu nghe người có trí tuệ, kẻ đó chẳng có niệm ác thì phải biết rằng người có trí tuệ kia suy nghĩ sâu xa và nói kệ rằng:
Nếu có lòng ác
Chẳng biết suy nghĩ
Tất có ý đồ
Chẳng ai gần gũi.
Lúc bấy giờ Vua Bàn Trà Bát Thọ Đề thấy nghe qua rồi sân hận phẫn nộ, chẳng giữ ý tứ, chẳng thể nhẫn nại nói với Tát Giá Ni Kiền Tử rằng: Ngươi ở trong đại chúng mà hủy nhục ta sao?
Do sân si mà ra lệnh sát hại.
Lúc bấy giờ Tát Giá sợ hãi hướng về phía Vua mà nói rằng: Tâu Đại Vương! Không nên làm việc như thế. Cho tôi đừng sợ hãi và hãy nghe tôi nói.
Vua bảo: Ngươi nay không sợ, muốn nói cái gì?
Thưa Đại Vương! Tôi cũng đã qua rồi! Tôi trước mặt Vua, thấy Vua quá ác, lời nói hung hăng, tánh ác hiện ra, không từ bi như loài thú. Đúng thật mà nói như vậy.
Này Đại Vương! Kẻ có trí tuệ không nên lúc nào cũng nói ra sự thật!
Đại Vương là người có trí thì nên nói lúc nào và không nên nói lúc nào.
Vì sao vậy?
Thưa Đại Vương! Nếu như thật mà nói thì chẳng qua mất lòng. Người không gần gũi là kẻ không có trí tuệ vậy.
Sau đó lại nói kệ rằng:
Như thật vị Vua nói
Người phàm cũng như vậy
Đó là người có trí
Suy nghĩ sau này nói.
Lúc bấy giờ Đức Vua dùng lời tán thán và hỏi vị Bà La Môn kia một lần nữa: Này Bà La Môn! Trong đời này có chúng sanh nào có trí huệ sáng suốt, tâm trí không loạn động, có thể trải qua chăng?
Tát Giá đáp rằng: Thật có vậy thưa Đại Vương.
Vua hỏi: Ai vậy?
Đáp rằng: Thưa Đại Vương! Đó chính là Sa Môn Cồ Đàm vậy. Sinh ra từ dòng chúa họ Thích và từ đó xuất gia. Như tôi đã biết rằng ông ta có thể trải qua nhiều việc khác nhau không chướng ngại. Sanh ra đã rơi vào nơi chuyển luân vương.
Điều ấy chẳng chướng ngại. Không sanh vào nơi dòng dõi hạ tiện. Nên cũng không chướng ngại. Sanh từ dòng họ Thích, là dòng họ cao cả. Sắc diện uy đức trang nghiêm đẹp đẽ. Nên chẳng chướng ngại.
Lại nếu Thích Cồ Đàm nếu chẳng xuất gia cũng đương nhiên sẽ làm một vị Chuyển Luân Vương, có bảy của báu thành tựu, đó là: Có xe quý, voi quý, ngựa quý, vàng bạc quý, gái đẹp, của quý, người chủ tớ quý. Thiên Tử đầy đủ dũng kiện đoan chánh, có thể hơn nhiều người khác, lại thành tựu tướng Chuyển Luân Thánh Vương.
Vì bốn thiên hạ mà thống lãnh tự tại, cũng là Vua của chánh pháp nữa. Không dùng binh để chinh phạt, mà dùng chánh pháp để trị nước.
Sau khi xuất gia rồi, tu sáu năm khổ hạnh, ngày ngày chỉ ăn một hạt mè và một hạt gạo. Ngồi dưới gốc cây Bồ Đề hàng phục ma chúng. Sau khi hàng phục rồi, mỗi sự nhớ nghĩ, trí tuệ sáng suốt.
Biết như vậy, được như vậy, xúc như vậy, giác như vậy, chứng như vậy… tất cả đều hiểu biết. Không có chúng sanh nào có thể so sánh được, hà huống có người hơn ông ta. Đó là Sa Môn Cồ Đàm, không ai có thể bằng được. Cho nên gọi là không có gì ngăn cản vậy.
Vì sao thế?
Đại Vương! Vì Sa Môn Cồ Đàm ngay cả gia tộc cũng không ai sánh được. Sự đoan chánh uy đức cũng không ai sánh bằng. Trí huệ uy đức cũng chẳng có ai như vậy cả. Cho nên gọi là không có chướng ngại.
Vì vậy nói lời kệ rằng:
Giữ lại ba mươi hai tướng tốt
Sanh ra nơi dòng Thích, Sư Tử
Là Thái Tử của Tịnh Phạn Vương
Thế Tôn có trí không sai biệt.
Sau khi Tát Giá Ni Kiền Tử nói lời ấy rồi.
Bát Thụ Đề Vương nói: Đại Bà La Môn! Nghe ta nói đây.
Có ai so sánh được với ba mươi hai tướng đại trượng phu của Như Lai chăng?
Bà La Môn nói: Ta đang nói đây.
Vua nói: Nghĩa gì vậy?
Đại Vương! Đây là Sa Môn Cồ Đàm có tướng tốt đầy đủ, khi đứng như chân tròn đầy có dấu pháp luân, tay chân mềm mại, ngón tay thon dài, tay chân đẹp đẽ.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Chân ngay ngắn, xương chân đầy đủ.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Tướng hiện ra đẹp.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Toàn thân đoan chánh.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Âm tàng che kín.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Lông xoáy về phía phải.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Lông dựng đứng.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Tóc có màu xanh dịu.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Da ánh lên sắc vàng vi diệu.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Bảy nơi đầy đủ.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Thân thể tròn đầy.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Tất cả đều đẹp.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Thân không ủy mị.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Thân cao lớn.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Thân thể tròn trịa như cây Ni Câu Đà.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Thân như Sư Tử Vương.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Đủ bốn mươi cái răng.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Răng này kín đáo.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Răng nhỏ và đều.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Răng này rất trắng.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Được mùi thơm sạch.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Lưỡi dài mà rộng.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Tiếng nói phạm âm.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Ngực đầy đủ.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Mắt ánh màu xanh.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Tướng trắng đẹp đẽ.
Đó là Sa Môn Cồ Đàm
Trên đầu có nhục kế.
Thưa Đại Vương!
Đó là Sa Môn Cồ Đàm có đủ ba mươi hai tướng Đại Trượng Phu vậy. Vì nghĩa này nên chẳng có ai qua được.
Sau đó nói lời kệ rằng:
Sanh từ họ Thích có nhục kế
Tóc ấy màu xanh xoay bên mặt
Mắt như sen xanh, đuôi trâu chúa
Như vậy Như Lai có đầy đủ
Ca Lăng Tần Già tiếng Phạm Thiên
Lưỡi ấy dài rộng thơm tho nhẹ
Không ai có răng như Thế Tôn
Hợp lại bốn mươi răng trắng toát
Tất cả loài người và Chư Thiên
Khi nhìn đều sanh tâm hoan hỷ
Lưỡi của Phật trùm khắp như thế
Cho nên chúng sanh khó sánh bằng
Tất cả chúng sanh đều hợp lại
Từ nơi tướng lưỡi của Thế Tôn
Làm cho chúng sanh thành một vị
Cho nên Thế Tôn chẳng ai bằng
Thân như Sư Tử trái Tần Bà
Bả vai trang nghiêm no đầy ắp
Thế Tôn thân như cây Ni Câu
Chung quanh đầy đủ ở an lành
Thế Tôn trang nghiêm thân đoan chánh
Thân như Sư Tử lớn mạnh dài
Bảy nơi đầy đủ khó sánh bằng
Trên tỏa ánh vàng thật vi diệu
Lông như Sư Tử nhỏ mà mịn
Thân da mịn màn thật đẹp đẽ
Tất cả tốt đẹp tạo nên thành
Cho nên chúng sanh khó sánh bằng
Lại như Sư Tử lúc ngủ nghỉ
Căn âm nằm sâu như ngựa chúa
Hông vai đầy đủ như nai chúa
Ai thấy lại chẳng sanh hoan hỷ
Tay chân Thế Tôn có vân quý
Các ngón bằng nhau cho đến móng
Chân bằng đầy đủ chẳng chỗ lõm
Bàn chân bằng thẳng chẳng cao thấp
Tay chân Thế Tôn thật mềm mại
Chỉ tay chỉ chân có luân xa
Thế Tôn lúc đi thật an tịnh
Đi trên mặt đất chẳng rung động
Chẳng ai có thể sánh tướng ấy
Trong đời đèn tuệ thật trang nghiêm
Ở trong đại chúng được tôn quý
Giống như mặt trăng giữa ngôi sao
Trong chốn phàm phu ánh sáng ấy
Thế Tôn vì đời làm ánh sáng.
Này Đại Vương! Đó là Sa Môn Cồ Đàm. Ánh sáng ấy rất vi diệu. Tất cả chúng sanh đều khó sánh bằng. Vì ý nghĩa này nên không có gì hơn được.
Này Đại Vương! Sa Môn Cồ Đàm do lực của từ bi mà thành tựu. Vì tất cả chúng sanh mà dùng tâm này để hóa độ không quái ngại.
Thường hay dùng đại từ cho nên không gặp những chướng ngại. Tự nhiên việc ấy phổ cập đến tất cả chúng sanh trong Thế Giới này cũng như những Thế Giới khác.
Này Đại Vương! Như Ma Ni bảo châu hay thanh lọc nước đục trở thành trong. Vì tánh thanh tịnh vậy. Với tánh ấy hay làm cho nước thanh tịnh trong sạch.
Này Đại Vương! Sa Môn Cồ Đàm cũng lại như thế ấy. Bên trong lại cũng trong sáng, cho nên làm thanh tịnh tất cả chúng sanh để khử trừ những kiết sử đóng lâu như bùn và ô nhiễm như thế. Cho nên gọi là không trên.
Sau đó nói lời kệ rằng:
Tâm từ khắp thế gian
Ba đời các Thế Giới
Tất cả tâm chúng sanh
Một lòng biết tâm từ
Không đâu không phổ cập
Từ này khó sánh bằng
Phổ cập khắp hư không
Tất cả biết như thế
Sạch như Ma Ni bảo
Làm sạch nước đục trong
Thế Tôn vốn thanh tịnh
Làm sạch chúng sanh nhiễm.
Này Đại Vương! Đó là Sa Môn Cồ Đàm vậy.
Thành tựu ba mươi hai đại bi tâm.
Thế nào là ba mươi hai?
Vì thấy chúng sanh chìm đắm trong ngu muội, cho nên Sa Môn Cồ Đàm mới vì chúng sanh mà dùng tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh bị đọa vào nơi luân hồi sanh tử, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì chúng sanh mà thực hành tâm đại bi.
Hay thấy chúng sanh siêng làm các việc không lành, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì những chúng sanh này mà thể hiện lòng từ bi.
Vì thấy chúng sanh trôi lăn trong sanh tử, cho nên Sa Môn Cồ Đàm mới vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh đọa vào nơi khổ sở, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh lìa xa con đường giác ngộ rơi vào tà đạo, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh tự dẫn mình vào trong lao ngục, nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh tham đắm sắc, thanh, lương, vị, xúc không biết đủ, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh thích nô lệ kẻ khác. Cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh, già, chết làm cho bức thiết khốn cùng, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh bị bệnh khổ ngặt nghèo, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh trong ba cõi bị thiêu đốt. Cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh bị ràng buộc bởi sự sanh tử, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh trong đời thường hay bị khủng bố, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh bị tham đắm vị lạ, không thấy lỗi lầm hay lo lắng buông lung, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh buông lung lười biếng, cho nên Sa Môn Cồ Đàm thường vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh đọa vào nơi đói khổ, thường hay hại nhau, cho nên Sa Môn Cồ Đàm hay vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh thường hay tranh đoạt tổn hoại với nhau, cho nên Sa Môn Cồ Đàm khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh vô minh mờ mịt như kẻ mù lòa, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh cùng nhau đấu tranh não loạn không dừng nghỉ, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh như cỏ, đậu, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh ưa nơi bất tịnh, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh rơi vào chỗ khó ra, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh có nhiều nghi ngờ, chấp trước vào tà kiến, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh như hoa Đâu La nương vào nhiễu loại, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh suy nghĩ sai trái như vô thường cho là thường, khổ cho là vui, không thanh tịnh cho là thanh tịnh. Không có ngã mà cho là có cái ta, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì chúng sanh ấy mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh thường hay bị khổ chồng chất lên nhau, cho nên Sa Môn Cồ Đàm vì những chúng sanh ấy mà khởi đại bi tâm.
Vì thấy chúng sanh nương vào nơi u tối, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh hay bị nhiễm ô, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi. Vì thấy chúng sanh bị tâm tham đắm cột chặt, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh tâm ưa lợi dưỡng, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi tâm đại bi.
Vì thấy chúng sanh sa vào nhiều bệnh khổ lo luồn, ho hăng não hại càng lớn, cho nên Sa Môn Cồ Đàm đã vì chúng sanh mà khởi đại bi tâm.
Này Đại Vương! Đó là Sa Môn Cồ Đàm thành tựu ba mươi hai tâm Đại Bi như vậy. Cho nên chẳng có ai trên được.
Sau đó nói kệ rằng:
Vô minh ngu si ám muội lớn
Thấy vô minh nhiễu hại chúng sanh
Thấy chúng sanh vui ngục sinh tử
Vì vậy Thế Tôn sinh đại bi
Thường hay khuyên răn làm việc lành
Phật thấy chúng sanh trôi nổi mãi
Cho nên tùy thuận mà hóa độ
Mười lực hay sanh tâm đại bi
Tội lỗi chất chồng như núi lớn
Thấy chúng sanh rơi vào đường tà
Muốn cho chúng sanh nơi Thánh đạo
An tịnh thanh tịnh không phiền não
Những tà kiến ấy trói buộc lại
Thương ghét cảnh giới chưa đầy đủ
Vì sanh già chết chìm nơi ấy
Vì thế Thế Tôn khởi đại bi
Gặp nhiều loại khổ rất khác nhau
Thấy đời ba cõi đang thiêu đốt
Sợ hãi như kẻ bị lột da
Vì lẽ ấy mà Thế Tôn thương
Chúng sanh tham đắm nơi vị ngọt
Buông lung tham trước là cảnh giới
Cho nên đọa vào nơi đói khổ
Điều Ngự hay cứu sự hại này
Thấy các chúng sanh hại lẫn nhau
Vì màn vô minh che đậy kín
Giống như cây cỏ bị che khuất
Vì lẽ ấy mà Thế Tôn thương
Dâm dục sanh ra nhiều ràng buộc
Thấy các chúng sanh khó thực hành
Rơi vào tà kiến như rừng rậm
Vì lẽ ấy mà Thế Tôn thương
Ở trong chỗ dơ tâm thanh tịnh
Vô thường, có thường, ngã và không
Cho nên chúng sanh phạm lỗi lầm
Vì thế Thế Tôn sinh lòng thương
Thấy vác nhiều việc càng thêm nặng
Phàm phu hay nương không dừng nghỉ
Thường vì trói buộc bị nhiễm ô
Vì vậy Thế Tôn có lòng thương
Hay thấy lợi dưỡng nên che khuất
Sanh vào cảnh giới không đầy đủ
Đọa vào tham dục như biển lớn
Cho nên thập lực khởi tâm từ
Thường hay có nhiều bệnh tật sinh
Thấy xong sự khổ của chúng sanh
Vì trừ tất cả khổ sở ấy
Cho nên thập lực sinh tình thương
Hãy biết chẳng có cũng chẳng không
Do đây mà sinh đại bi tâm
Tất cả chúng sanh đầy khắp cả
Vì vậy Thế Tôn chẳng ai bằng.
Này Đại Vương! Nay lại nói thêm rằng: Đó là việc Sa Môn Cồ Đàm thành tựu tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, tứ thiền, ngũ căn, ngũ lực, bảy pháp trợ đạo, bát chánh đạo thành tựu đầy đủ.
Cho nên Đại Vương! Đức Cồ Đàm này chẳng ai có thể sánh kịp.
Sau đó nói kệ rằng:
Thường khuyên tinh tấn tu niệm xứ
Đại Giác hay biết việc nào nên
Đức Phật thiền định được tự tại
Hơn cả chúng sanh không gì trên
Điều Ngự trong đời chứng thần thông
Biện luận tự tại đến bờ kia
Như Lai hay biết phép giải thoát
Đại Giác thần thông đến rốt ráo
Từ nơi phạm hạnh chứng tự tại
Tu các từ bi và hỷ xả
Thường hay an trụ nơi định huệ
Cho nên vượt khỏi thường không thường
Đức Phật hay giúp việc giác ngộ
Như Lai rõ biết tám đường Thánh
Thấy được chúng sanh đang khổ sở
Dẫn dắt chúng sanh đến an lạc
Tất cả Thế Giới chẳng còn ai
Đều được chứng thành vô thượng đạo
Tất cả đều thành nhiều công đức
Thường hay chẳng dứt giống lành này.
Này Đại Vương! Đó là Sa Môn Cồ Đàm. Ngài thành tựu mười lực.
Vua hỏi: Này Bà La Môn, thế nào là mười lực của Như Lai?
Này Đại Vương!
Đó là: Phật Như Lai, là xứ như thật tri, là xứ phi xứ như thật tri, là phi xứ khứ lai, hiện tại, tác nghiệp thọ nghiệp, trụ xứ nhân báo như thật tri, là vô lượng Thế Giới, chẳng chẳng Thế Giới như thật tri.
Là loài người, chúng sanh sở giải như thật tri.
Là loài người, chúng sanh có căn, không căn như thật tri.
Là tất cả con đường như thật tri.
Là chúng sanh, loài người đầy đủ các căn lực.
Là trợ đạo, các thiền, giải thoát, định, thứ đệ định.
Là tất cả kiết sử nhiễm ô được trong sạch.
Tùy nơi nơi như thật liễu tri.
Nhớ nghĩ vô lượng chẳng chẳng túc mệnh.
Nếu có chúng sanh, sanh ra trong vô lượng kiếp có việc làm như thế, có đời sống như thế như thật tri. Thiên nhãn thanh tịnh vượt qua mắt thường của người, thắng tất cả chúng sanh có nhiều đoạn đường sanh tử khác nhau. Cho đến sanh vào nơi đường lành, đường dữ như thế mà biết. Các lậu hết và không hết, tâm giải thoát và huệ giải thoát như thật tri.
Này Đại Vương! Đó gọi là mười lực của Như Lai thành tựu, đầy đủ lực vậy. Tên gọi là giữ mười lực. Tên gọi là không chịu hàng phục. Cho nên không có ai trên.
Như thế mà nói kệ rằng:
Là xứ chẳng là
Như thật mà biết
Nói thật Đại Nhân
Chẳng ai sánh bằng
Biết chẳng mất đi
Hiểu rằng nghiệp báo
Biết có nhân duyên
Như thật chẳng sai
Điều Ngự biết vậy
Biết rất nhiều điều
Thế Giới khác nhau
Biết rõ nơi ấy
Người đời khó sánh
Hiểu rõ từng loại
Giải rõ rất nhiều
Chiếu sáng thế gian
Như thật không đổi
Biết rõ căn lành
Lại biết căn vừa
Cũng biết căn thuần
Đến căn bờ kia
Tất cả đến đạo
Như thật mà biết
Căn ấy giúp đạo
Thần thông giải thoát
Nhiễm ô trong sạch
Các các rõ bày
Không có chướng ngại
Thấy nghe vô ngại
Nhớ nghĩ bình đẳng
Vô lượng xứng thật
Chính mình và người
Như thật chẳng khác
Thiên nhãn thanh tịnh
Vượt khỏi mắt người
Sanh tử chúng sanh
Điều Ngự thấy rõ
Biết chỗ lậu tận
Cũng biết giải thoát
Vô lậu có đổi
Lại cũng biết luôn
Đây người cao cả
Hiểu rành tự tại
Đấy chỉ một tâm
Tâm không phân biệt
Động tịnh chẳng động
Tự nhiên mà có
Từ khi chuyển pháp
Chẳng phân biệt vậy
Một lòng mà biết
Các ân chúng sanh
Và tâm chúng sanh
Chẳng có hai tướng
Cho nên chẳng qua
Phật chứng tự tại
Tất cả pháp lành
Sanh ra công đức.
Này Đại Vương! Đó là Sa Môn Cồ Đàm, thành tựu bốn vô úy.
Đại Vương lại hỏi: Này Bà La Môn! Những gì là bốn vô úy của Như Lai vậy?
Này Đại Vương! Sa Môn Cồ Đàm tự nói rằng: Ta chứng được Chánh Biến Tri. Nếu có Sa Môn, Bà La Môn, Ma Phạm và Trời người mà không biết được các pháp chẳng chánh biến thì ta chẳng thấy tướng vậy. Chẳng thấy tướng ấy nên được an ổn tự tại. Chứng được hành vô úy.
Lại nói rằng: Ta đã chứng được tối thắng hành. Từ nơi đại chúng, Chánh Sư Tử Hống, hay chuyển xe pháp, Sa Môn, Bà La Môn cho đến trong đời, chẳng có gì là không chuyển được. Đó là chánh pháp vậy.
Phật lại tự thệ nguyện rằng: Các lậu tận đối với ta, nếu dùng ngôn từ để mà nói thì cái lậu không có cái cuối cùng. Phật chẳng thấy tướng này, lại cũng chẳng thấy. Cho nên Như Lai chứng được an lạc. Chứng được hành vô úy, đắc được thắng xứ hành.
Tại nơi đại chúng, Chánh Sư Tử Hống, hay chuyển phạm âm. Sa Môn, Bà La Môn và tất cả trong đời chẳng có gì không chuyển được. Nên gọi là chánh pháp vậy. Phật nói pháp chứng đạo. Nếu có kẻ nói rằng thân cận là pháp chẳng có chướng ngại, thì Phật chẳng thấy tướng ấy. vì chẳng thấy tướng ấy cho nên được hành an lạc.
Chứng được vô úy hành. Được thắng xứ hành. Từ nơi đại chúng, Chánh Sư Tử hống, chuyển thành âm thanh. Sa Môn, Bà La Môn và người trong đời chẳng gì là không chuyển. Nên gọi là chánh pháp. Ta cũng đã nói về đạo xuất thế.
Nếu có kẻ nói rằng: Kẻ thân cận chẳng thể xuất thế. Mà Phật thì chẳng thấy tướng ấy. Vì chẳng thấy tướng ấy. Nên gọi là an lạc hạnh. Đắc vô úy hạnh. Đắc thắng xứ hạnh. Từ nơi đại chúng, Chánh Sư Tử Hống hay chuyển phạm âm. Sa Môn, Bà La Môn và người đời chẳng có thể chuyển được chánh pháp.
Này Đại Vương! Đây là những điều gọi là Như Lai tứ vô sở úy vậy. Như Lai thành tựu nơi bốn việc không sợ này. Từ nơi đại chúng, Chánh Sư Tử Hống, chẳng có gì hơn.
Bèn nói kệ rằng:
Trong chúng tiếng Sư Tử
Điều Ngự chẳng sợ hãi
Ta cũng chẳng thể sánh
Huống nữa các chúng sanh
Nếu ta biết việc ấy
Là chân thật chẳng hư
Đức chánh biến đã thấy
Nai chúa tiếng Sư Tử
Nếu có kẻ sai trái
Chẳng thấy tướng đó kia
Lại chẳng thấy tướng ấy
Lại được chẳng sợ hãi
Ta tất cả các lậu
Thân ta là vô lậu
Có không cũng giống nhau
Chư Thiên và người đời
Có các pháp chướng ngại
Cho nên Phật dạy cho
Đó là điều chân thật
Chẳng có thể biến đổi
Ta nói ra chánh đạo
Tự biết đã giải bày
Người tu hành pháp này
Chẳng có sanh chướng ngại
Hiểu rõ biết làm rồi
Như Lai được an lạc
Chứng được vui vô úy
Trên cả các pháp hành
Chuyển nói tiếng Phạm Thiên
Ngoài những việc khó chuyển
Thế gian nơi chẳng chuyển
Duy trừ Lưỡng Túc Tôn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tiên Nhân
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm ác Hạnh - Tập Một
Phật Thuyết Kinh đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Con Gái Trưởng Giả Cấp Cô độc - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Na Tiên đàm đạo - Phần Mười Ba - Lời Cuối Cùng
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ca Ma - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phấn Hai Mươi Chín