Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tùng đâu Thuật Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh Bồ Tát Xử Thai - Phẩm Tám - Bát Chủng Thân

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH BỒ TÁT TÙNG

ĐÂU THUẬT THIÊN GIÁNG THẦN

MẪU THAI THUYẾT QUẢNG PHỔ

KINH BỒ TÁT XỬ THAI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM TÁM

BÁT CHỦNG THÂN  

Đức Phật dạy: Các Đại Bồ Tát bậc học, vô học và bốn bộ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đến đây hội họp đều được tất cả chúng sinh cúng dường.

Hoặc có chúng sinh ở Địa Kiến, Địa Bạc, Địa Tịnh, Địa Như Lai, Địa Phật Bích Chi, Địa Bất Thoái Chuyển, Địa Đạo Tràng, Địa Thuyết Pháp. Nhờ tám địa này mà thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Địa Kiến là gì?

Là Bồ Tát phát tâm hướng lên ngôi bồ đề vô thượng.

Lại có Bồ Tát từ lúc mới phát tâm cho đến lúc ngồi bên cội cây Thọ Vương, tự điều phục tâm dục của mình, chiến thắng quân ma thì nhập định tam muội ngay chỗ ngồi.

Tam muội ấy là:

Tam muội Khử tật đố.

Tam muội Tâm thắng.

Tam muội Bí tàng.

Tam muội Trừ si.

Tam muội Oai thần phục.

Tam muội Như Chư Phật Thế Tôn vô ngôn giáo.

Tam muội Thị hiện biến hóa.

Khi ấy, ma ác Ba tuần đến quấy nhiễu Phật. Nếu không phải sức của chính mình để đến thì đều nhờ oai thần của Như Lai ấy cảm vời tạo ra.

Vì sao?

Vì muốn biểu hiện pháp thế tục yếu kém, còn pháp đệ nhất nghĩa thì thù thắng.

Vì sao?

Vì nếu ma ác Ba tuần nổi sân giận, la hét làm chấn động mặt đất thì Phật dùng tam muội nhẫn nên không sao bị lay động, còn khiến cho vô số ma ác Ba tuần ngã lăn ra đất, giống như dế, kiến và ruồi không thể nào hành động được. Đám ma ác Ba tuần y như vậy. Nếu ma nào có đến cũng không thể nào động đến mảy lông ta được.

Lúc này, Đức Thế Tôn dùng oai thần nhập vào định, tam muội, làm chấn động đến ma ác trong cảnh giới của một Đức Phật.

Các ma ác này tuyên bố: Sa Môn Cù Đàm tâm rất yếu mềm, không phải ý chí của hàng trượng phu, vậy mà ở chỗ rất đáng sợ này lại muốn cầu Phật Đạo.

Phật dạy đại chúng: Ma ác Ba tuần ấy là do Ta tạo ra.

Tâm ma ấy là tâm thiện hay tâm ác?

Lúc đó có vị Trời tên Câu tỳ bạch Phật: Phật chiến thắng ma không phải là lực của ma, mà là thần lực của Phật.

Vì sao?

Vì loài chúng sinh ấy không hiểu pháp thế tục mà lại dùng pháp đạo. Vì muốn giáo hóa các chúng sinh ấy nên cần hàng phục đối với ma đến. Trong đó chúng sinh thấy các ma, lòng không ưa thích nhìn thấy rõ ràng sự việc. Cả ngàn vạn chúng sinh thiết lập tâm bất thoái chuyển.

Lại nữa, Đại Bồ Tát từ Trời Đao Lợi sinh vào mười phương cõi, không sinh theo thấp sinh, noãn sinh, hóa sinh, thai sinh mà giáo hóa chúng sinh. Những Bồ Tát này thành tựu căn vô ký nên chúng sinh được giáo hóa cũng thành tựu căn vô ký.

Vì sao?

Vì là cảnh giới của Phật Asúc.

Hoặc có Đại Bồ Tát từ Thế Giới Nhẫn sinh vào Cõi Phật nơi Bắc Phương là Quang Ảnh, thành tựu căn hữu ký và vô ký. Chúng sinh được giáo hóa cũng đều thành tựu căn hữu ký và vô ký. Đó là chúng sinh ở Cõi Phật Diệu Quang của Thế Giới Dục Lạc.

Hoặc có Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc thành Phật, giữ tâm một bề không có tư tưởng nào cả và không sân, không giận, mong muốn sinh vào Cõi Phật Vô Lượng Thọ. Tất cả chúng sinh đều sinh vào cõi đó. Bốn bộ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều cùng một màu vàng ròng.

Về phương Tây, cách Cõi Diêm Phù Đề này mười hai ức na do tha có cõi nước tên là Giải Mạn, dân trong Quốc Độ ấy ưa Thích Ca hát. Y phục, trang sức, hương hoa, trang hoàng giường cửa bằng bảy báu. Đưa mắt về phía Đông thì giường báu cũng chuyển theo, nhìn về phía Tây, Nam, Bắc đều cũng chuyển như vậy.

Tất cả chúng sinh đều phát tâm muốn sinh về Cõi Phật A Di Đà, nhưng họ đều bị đắm nhiễm vào cõi Giải Mạn nên không thể nào tiến lên để sinh vào Cõi Phật A Di Đà. Trong ức ngàn vạn người có một người có thể sinh vào Cõi Phật A Di Đà.

Vì sao?

Vì tâm họ không chấp trước, biếng trễ, ngã mạn. Những chúng sinh này tự mình không sát sinh, cũng không bảo người khác sát sinh. Do có những phước báo như vậy nên họ sinh vào cõi Vô Lượng Thọ.

Hoặc có Đại Bồ Tát đầy đủ sáu độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và giải thoát trí tuệ, sinh vào Cõi Phật Dũng Dược ở phương Nam, cách Cõi Diêm Phù Đề này một ức Cõi Phật. Những chúng sinh ấy không có tư tưởng si, ái, dâm, dục.

Vì sao?

Vì họ đã đoạn diệt hết ba mươi sáu hành động dâm dục ở Cõi Dục, chủng tánh được thành tựu, việc làm đều thanh tịnh, giống như ánh sáng mặt trời không bị mây che.

Chúng sinh nơi cõi này hành mười hai hạnh Đầu Đà.

Mười hai hạnh ấy là gì?

Là ngày đêm ba thời, kinh hành, ngồi thiền không sai giờ giấc, ngồi bên gốc cây, ở trong gò mả, ở nơi đất trống, ở chỗ hang đá không có người, sống chỗ nguồn suối, có lúc ăn một bữa, không ăn, mặc pháp phục tề chỉnh không mất oai nghi, có lúc nói pháp, có lúc không nói pháp, kinh hành xoay vòng biết vừa đủ.

Pháp để nói là: Thiểu dục là chân đạo, đa dục là phi đạo, dừng tâm định ý, hiểu pháp không, vô tướng, vô nguyện. Đó là những sự tu hành của Đại Bồ Tát ở cõi Dũng Dược. Chúng sinh ấy chuyên học về Nhất Thừa, không có La Hán, Phật Bích Chi thừa, có đầy đủ tướng tốt, ca ngợi chánh pháp, hiểu về không, vô ngã.

Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Tất cả hành đã diệt

Thức là pháp bên ngoài

Có sinh đều có diệt

Niết Bàn rất an lạc.

Cúi lạy Phật Dũng Dược

Đấng Pháp Vương đệ nhất

Ngồi nơi cây Diêm phù

Ban đầu phá lưới dục.

Nói pháp độ quần sinh

Cúng dường các ruộng phước

Ngồi nơi cây tư duy

Phạm Thiên đến khuyến thỉnh.

Xin Phật ra khỏi thiền

Thương xót kẻ ngu si

Khi ấy Phạm Thiên Vương

Tay cầm đàn lưu ly.

Ca ngợi công đức Phật

Giọng êm ả dịu dàng

Với ức trăm ngàn kiếp

Có người phát tâm đạo.

Tâm đạo gốc Bồ Tát

Ức kiếp có một lần

Xin mau ra khỏi thiền

Chuyển pháp luân vô thượng.

Như hoa Ưu Đàm bát

Lâu xa có một lần

Có Phật chiếu thế gian

Trừ tăm tối phiền não.

Thế Giới Phật Dũng Dược

Nghe thí, giới thanh tịnh

Không giống cõi Năng Nhẫn

Cứng cỏi khó giáo hóa.

Tư duy đạo thiền định

Diệt thân không thọ chứng

Ba chuyển, năm ngại pháp

Dây mười hai mắc xích.

Đạo nghiệp ba mươi mốt

Mười sáu tâm từ bi

Tỏa phóng ánh sáng lớn

Chiếu khắp các Cõi Phật.

Sau khi nói kệ xong, Đức Phật bảo đại chúng trong chúng hội: Về phương Đông Bắc, cách Thế Giới Năng Nhẫn này năm trăm Hằng hà sa cõi có nước tên Quả Thục, Phật hiệu Hoa Anh, đầy đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang thuyết pháp.

Lời nói Đầu Đều thiện, lời nói giữa đều thiện, lời nói cuối cũng đều thiện, ý vị thâm thúy, đồng tu phạm hạnh. Chúng sinh cõi ấy không có thai sinh, hóa sinh, thấp sinh và noãn sinh. Tất cả đều sinh từ hoa sen, có từ, bi, hỷ, xả, một trăm lẻ bảy thần túc định ý khó có và đều cùng nhau tu tập tam muội vương tam muội.

Tam muội ấy là:

Tam muội Thủ lăng nghiêm.

Tam muội Giác đạo.

Tam muội Oai nghi giới cấm.

Tam muội Trừ chúng sinh khổ bản.

Tam muội Tự chiếu quang minh.

Tam muội Giác vị chúng sinh.

Một trăm lẻ bảy tam muội như vậy.

Quán thân bên trong, quán thân bên ngoài, quán thân trong ngoài. Pháp trong, pháp ngoài, pháp trong ngoài. Định trong, định ngoài, định trong ngoài. Tư duy phân biệt, quán rõ vô hình, vô tưởng, vô niệm. Đại Bồ Tát nhập vào môn giải thoát, quán tất cả pháp đều không tịch vô hình.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Hư Không, không biên giới

Âm vang nói diệu pháp

Bồ Tát cõi Quả Thục

Đấng tối thắng Hoa Anh.

Không sinh bốn bào thai

Mà sinh từ hoa sen

Tưởng không ta, không người

Tuổi thọ không thể lường.

Quốc Độ bằng bảy báu

Cũng như Diêm Phù Đề

Vua Chuyển luân bảy báu:

Voi, ngựa, ngọc nữ báu.

Giữ kho, bốn bộ binh

Ma ni, xe báu vàng

Đi đâu cũng không ngại

Ma ni báu cõi ấy.

Chiếu khắp một Cõi Phật

Chiếu vô biên cũng vậy

Cõi ấy không nhật nguyệt

Tinh tú và lửa sáng.

Phân biệt bốn diệu đế

Đạo vô thường, khổ, không

Khiến các chúng sinh ấy

Vô sinh đoạn diệt tưởng.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo đại chúng: Về phương Tây Bắc, cách Cõi Diêm Phù Đề này bảy vạn hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Bảo Lưu Ly, Phật hiệu Tuệ Thành Tựu, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn hiện đang giảng nói pháp, lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối cũng thiện.

Chúng sinh nơi cõi ấy có tánh nhu hòa, quán đạo vô thường, xa lìa ba tai hại, không dâm  nộ  si, không có ba đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ với đại chúng:

Các nhập đường phiền não

Gây bốn loại điên đảo

Tất cả đều diệt tận

Như hư không không tướng.

Tuổi thọ đến vô số

Không có ai chết yểu

Hành bốn pháp vô úy

Chứng quả không lay động.

Ai sinh trong cõi ấy

Hành từ chứng tam muội

Như ta Thích Ca Văn

Dũng mãnh vượt kiếp số.

Cho nước, của, vợ con

Không tưởng, không luyến tiếc

Này Phật tử các ông

Phát nguyện sinh cõi ấy.

Không có pháp Thanh Văn

Rõ nhân duyên thành Phật

Ở trong trăm ngàn kiếp

Siêng năng tu đạo đức.

Trong mười sáu phần này

Chưa đạt được một phần

Quán tánh pháp các pháp

Tuệ thông đạt vô ngại.

Diệt sạch tâm chấp ngã

Liền trụ địa vô sinh

Các chúng sinh cõi ấy

Lập chí rất kiên cố.

Phá hữu, không trụ hữu

Pháp bổ xứ đã học

Này Phật tử các ông

Hiểu rõ không chỗ hành.

Xả thiền, nhập Sơ Thiền

Mới biết khổ chúng sinh

Trung gian chín vô ngại

Tướng thiền không thể lường.

Tâm chúng sinh thanh tịnh

Ý niệm không giống nhau

Đã lìa vực năm đường

Phật nhật chiếu ba cõi.

Lành thay được lợi lớn

Cảm động các cung Trời

Đồng chân nhất thiết trí

Giáo hóa không mỏi mệt.

Chúng sinh đắc tâm từ

Luyến mộ đạo vô thượng

Trải qua vô số kiếp

Bỏ thân, lại thọ thân.

Luân hồi trong sinh tử

Được thoát khỏi trói buộc

Hương chiên đàn tứ đế

Hương cây Mật tế bặc.

Sức tam muội trí tuệ

Phá trừ chúng binh ma

Hết một niệm quá khứ

Lấy tam muội gì đoạn.

Hết hai niệm vị lai

Trừ bằng định, đạo nào

Hết ba niệm hiện tại

Diệt tận cốt còn gốc.

Hết một niệm quá khứ

Chín vạn ức trần cấu

Do không định tịch tĩnh

Đạt đến không, không bờ.

Vị lai dứt chín kiết

Tâm định không niệm tưởng

Tịch nhiên đạt Phật Đạo

Luôn trụ vô sở trụ.

Ba chín kiết hiện tại

Cầu pháp không chướng ngại

Diệt trừ tâm ý thức

Dần dần trụ vô ngại.

Nói kệ xong, Đức Phật bảo đại chúng: Về phương Tây Nam, cách Thế Giới Năng Nhẫn này ba mươi hai hằng hà sa cõi, có nước tên Vô Tưởng, Phật hiệu Nhất Trụ gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang giảng nói pháp.

Lời nói đầu thiện, lời nói giữa thiện, lời nói cuối cũng thiện, ý nghĩa thâm thúy.

Phân biệt rõ về năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, sáu tình, sáu trần, tu tướng vô thường, chánh niệm tỉnh thức. Pháp ban đầu là tư duy về thân bị hủy hoại. Thân này chẳng thật có, cho bốn rắn là nhà. Thân này như độc hủy hoại đạo thiền của con người.

Thân này như voi, tâm không vừa đủ. Thân này như rồng thích ở vực sâu.

Đạo Phật vô vi, thanh tịnh không tỳ vết, như hoa sen trong nước không nhiễm bùn dơ, như mặt trời chiếu khắp Trời đất che lấp tất cả ánh sáng của đom đóm. Trong các núi cao, núi Tu Di là trên hết. Trong ánh sáng của các vì sao thì ánh sáng mặt trăng là trên hết. Như Lai hiện ra đời vì đèn pháp là đệ nhất.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Đoạn cấu, diệt trừ tưởng

Tâm trói buộc được mở

Ý niệm định tịch nhiên

Tịnh hạnh được đầy đủ.

Trong một ý một niệm

Đoạn diệt cấu kiết sử

Trừ bỏ hẳn kiếp khổ

Chấm dứt không tái sinh.

Đạo không tịch vô thượng

Như có, như không có

Người, ta và các thức

Tưởng như mộng, ảnh, huyễn.

Bồ Tát tu khổ hạnh

Kiếp số khó lường được

Muốn nói hết căn bản

Chẳng một, chẳng hai hình.

Nếu có người trí tuệ

Giảng nói vô lượng nghĩa

Một nghĩa có ức câu

Mỗi câu đều khác nhau.

Hư không lấp đầy được

Nhưng nghĩa ấy không cùng

Ta từ xưa đến nay

Hành sáu độ vô cực.

Bố thí trừ keo kiệt

Thiền định cũng như vậy

Kiếp thiêu, tâm không động

Không đến Cõi Phật khác

Nhờ thần lực cảm vời

Trụ kiếp mà giáo hóa.

Nói kệ này xong, Đức Thế Tôn liền dùng định ý để tự trang nghiêm thân, nói với đại chúng: Về phương Đông Nam, cách Thế Giới Năng Nhẫn này ba mươi ba Hằng hà sa cõi, có cõi nước tên Lưu Ly, Phật hiệu Tín Giải gồm đủ mười tôn hiệu:

Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hiện đang giảng nói pháp, lời nói đầu đều thiện, lời nói giữa đều thiện, lời nói cuối cũng đều thiện, phân biệt hạnh kiết tường của bốn đạo.

Bảy lần sinh, còn lại ba lần không sinh trở lại thì ở ngay hiện đời mà nhập Niết Bàn, đoạn khổ, tập, diệt, thủ đạo chứng đắc.

Khi ấy, có vị Trời tên Nhãn Tịnh ở trong chúng còn hồ nghi: Nay ta nên hỏi Như Lai về ý nghĩa đó để cho bạn đồng tu của mình đều được khai ngộ.

Thế rồi Thiên Tử đứng dậy, quỳ gối chấp tay bạch Phật: Cúi xin Đức Thế Tôn nói cho chúng con về nghiệp dâm nộ si của Đại Thừa bình đẳng.

Quá khứ, hiện tại, vị lai những chúng sinh si ám nào nhập môn giải thoát?

Phật bảo Nhãn Tịnh: Lành thay! Lành thay! Đây chính là con mắt khai thị tất cả. Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ phân biệt rõ ràng cho ông.

Thế nào, nhãn là sắc phải không?

Thưa: Không phải.

Phật lại hỏi: Là phi sắc chăng?

Thưa: Không phải.

Phật hỏi: Là sắc, là phi sắc chăng?

Thưa: Sắc không có chỗ trụ.

Phật bảo Nhãn Tịnh: Như vừa rồi ông nói: Sắc ấy chẳng phải sắc, là sắc, là phi sắc, sắc không có chỗ trụ thì vì sao đặt danh từ để nói là sắc?

Nhãn Tịnh thưa: Tánh sắc hư mục, hiện tại diệt không trụ, quá khứ không hiện. Đời này qua đời sau vĩnh viễn đoạn tận không còn nữa, cho nên nói Niết Bàn Vô dư.

Phật hỏi Nhãn Tịnh: Thức này từ xưa đã có hay từ đâu sinh?

Ngày nay bốn chúng diệt cấu bẩn ba đời, vậy thì đi về đâu?

Nhãn Tịnh thưa: Xưa vốn từ không mà đến, nay trở về không.

Trước không, sau không thì có thay đổi gì khác không?

Đức Phật dạy: Không.

Ông nên biết: Thật tướng của các pháp trước không thể cùng, sau không thể tận.

Phật dạy Nhãn Tịnh: Ta từ vô số A tăng kỳ kiếp luôn tu hành phước nghiệp, nghĩ đến tất cả chúng sinh bị đắm chìm mà thương xót cho sự đau khổ của họ, muốn độ họ giải thoát.

Vì sao?

Vì nay ở trong thai, dục mà ta diệt thì ta đã diệt sạch hoàn toàn, kết quả nguyện thành ngày nay đã đạt được.

Chúng sinh nơi cõi ấy không lấy việc thành Phật hay không thành Phật cho đấy là mối khổ lụy.

Vì sao?

Vì chúng sinh nơi cõi ấy lập ý dũng mãnh, không ở hữu thai, không ở vô thai, không ở hóa sinh, công đức thành tựu, chẳng phải giác, chẳng phải phi giác.

Thế nào là giác và thế nào là phi giác?

Tất cả chúng sinh ngu si ta đều giác ngộ cho họ, đó gọi là giác.

Tất cả những người giác ngộ đoạn trừ hết kiết sử, đó gọi là phi giác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:

Biết Phật hiện nơi đời

Phóng xa ánh sáng lớn

Khổ tập diệt kiết sử

Đứng yên không dám gần.

Giả sử đất chấn động

Ba cõi nát như bụi

Thâu tâm nhập định ý

Các tướng đều khác nhau.

Niệm Như Lai Chí Chân

Trừ tưởng không nhập định

Vào trở lại chúng sinh

Tạo nhân lại tạo duyên.

Tinh tấn trí tuệ lớn

Giáo hóa kẻ ngu si

Hướng dẫn chúng sinh này

Để độ kẻ chưa độ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần