Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Bảy - Phẩm Thân Niệm Xứ - Tập Mười Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT
KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM BẢY
PHẨM THÂN NIỆM XỨ
TẬP MƯỜI TÁM
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, dùng văn tuệ hay thiên nhãn, vị ấy xem Cõi Uất Đan Việt lại có những ngọn núi đáng ưa nào nữa?
Dùng văn tuệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy ngọn núi thứ sáu tên Man trang nghiêm.
Núi ấy có đủ thứ xinh đẹp với những thứ cây đủ màu sắc: Đỏ, lục, xanh, vàng như cây Tạp Hoa Lâm. Lại có cây hoa tên Vô Ưu. Lại có các cây hoa khác như Kim Diệp, Chi Phú, A Đề Mục Đa Ca thân vàng, lá vàng, gió thổi làm xao động mặt nước.
Lại có cây Ni Quân Luân Đà, lá bằng Tỳ Lưu Ly, cây Ba Tiêu lá bằng san hô, thấy Mặt Trời thì trổi dậy. Lại có cây Đề La Ca, khi thấy ánh sáng Mặt Trăng thì liền nở hoa ra. Lại có cây hoa Câu Mâu Đà, lúc không có Mặt Trời thì nở ra.
Lại có cây hoa tên Bán Nguyệt Hỷ, cây hoa tên Na La Ca La, cây hoa tên Tam Hoan Hỷ, cây hoa tên Bàn Đầu Thời Bà. Lại có cây hoa gặp khói liền tăng trưởng. Lại có cây hoa tên Vô Ưu, nếu người nữ chạm vào hoa liền hiện ra.
Lại có cây hoa tên Quân Đà, tính rất mềm mại. Lại có cây hoa Thi Lợi Sa, nếu được chân người giẫm lên thì liền tăng trưởng. Lại có cây hoa Bì đa bà, khi ấm áp thì có hương thơm. Lại có cây hoa Cưu Cưu Ma, lưu chuyển qua nhiều nước khác. Lại có cây hoa Kiến Cát.
Lại có hoa sen tên Thiện Ý, Người, Trời đều yêu thích. Lại có hoa sen tên Thanh Ưu Bát La sinh ra trong nước. Lại có hoa sen tên Thường Khai Phu. Lại có hoa sen tên Sư Tử Ca Đàm Bát La. Lại có hoa sen tên Thủy Tiếu, bước chân giẫm nhẹ lên thì liền nở ra.
Lại có cây hoa Vô Ưu đỏ, nếu người nữ giẫm chân lên thì do có sắc, hương, vị, xúc của người nữ, hoa liền hiện ra. Lại có cây hoa A Tra Ca. Như vậy, có tới hai mươi hai loại cây hoa dùng làm vòng hoa để trang sức. Hoặc có hoa màu vàng ròng, màu lưu ly, hoặc có hoa màu bạch ngân, hoặc có hoa thân sắc vàng, hoặc có hoa màu lục, hoặc hoa tạp sắc, hoặc là ở trong ao, hoặc bên gốc cây, hoặc trong rừng rậm, hoặc có khắp tất cả mọi nơi.
Lại có các loài chim vàng ròng làm thân, bạch ngân làm cánh. Hoặc có loài chim thân bằng bạch ngân, cánh bằng vàng ròng. Hoặc có loài chim thân bằng san hô, cánh bằng Tỳ Lưu Ly. Hoặc thân là Tỳ Lưu Ly, cánh là báu chúa xanh. Hoặc thân là pha lê, cánh là vàng ròng. Hoặc có các loại chim vàng ròng làm bụng, cánh bằng bạch ngân, lưng bằng Tỳ Lưu Ly.
Hoặc có những loài chim bảy báu làm thân, như báu chúa xanh, báu ma già la, báu pha lê ca, xa cừ, san hô, báu ma tô cưu lưu ma lợi, báu xích liên hoa. Như vậy, do nghiệp báo của mỗi loài mà những con chim có đủ thứ màu sắc, đủ loại âm thanh, vô lượng loại thân. Người Cõi Uất Đan Việt do nghiệp lực của mỗi người mà có vô lượng cây rừng tạp sắc, núi, sông, ao, hoa vô cùng đáng ưa và vui thích.
Như ý niệm trong tâm họ được các thứ báu tươi đẹp tô điểm, do nghiệp lành từ đời trước, nên hóa ra các thức ăn, thức uống thích hợp, sông suối, ao hồ, rừng cây xinh đẹp khắp nơi. Bất cứ nơi chốn nào trong núi Man Trang Nghiêm, người Cõi Uất Đan Việt cũng thọ hưởng mọi thứ an lạc.
Người ở trong núi ấy tên là Thường Du Hý, giống như Chư Thiên, vào bốn tháng mùa hạ, tụ tập bên gốc cây Ba Lê Da câu từ dà vui vẻ thọ lạc, chỉ trừ hàng thân thuộc, thân có xương thịt và các chất mồ hôi dơ bẩn, ngoài ra thì đều như vậy.
Lại nữa, người tu hành xem xét pháp nơi nghiệp quả của chúng sinh có ba loại: Kiêu mạn phóng dật và không tạo nghiệp lành.
Ba loại đó là:
1. Ỷ vào sắc đẹp mà sinh lòng kiêu mạn.
2. Cậy vào tuổi thiếu niên mà sinh lòng kiêu mạn.
3. Dựa vào mạng sống mà sinh lòng kiêu mạn.
Thân không làm nghiệp lành, miệng không tạo nghiệp lành, ý không nghĩ nghiệp lành, nhưng nhờ vào nghiệp lành thù thắng từ trước mà được sinh lên Cõi Trời, rồi từ nơi Cõi Trời thoái chuyển lại bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ái dục trong cõi người giống như mật ngọt trộn lẫn chất độc, phải chịu khổ sở lớn, là sự trói buộc lớn nhất, là nơi chốn xấu ác nhất.
Ái dục trói buộc chúng sinh nhưng chúng sinh không biết nó sinh ra từ đâu và đi về nơi nào. Tất cả các dục giống như quả chân ba ca, ban đầu có chút ít vị ngọt nhưng về sau thì đắng vô cùng, giống như lưới che phủ chúng sinh, khiến họ không biết đang rơi xuống triền núi hiểm trở. Ái dục bị chia biệt là nỗi khổ lớn, như lửa thiêu đốt.
Sức cường tráng không dừng lại, như nước từ trên núi cao chảy mãi không dừng nghỉ, biến đổi, suy hoại. Trong năm đường ác, không một nơi nào không bị gió nghiệp ác thổi, xoay vần trong các cõi, nhưng chúng sinh vẫn không nhàm chán sinh tử. Quan sát người Thường Du Hý nơi núi Man trang nghiêm rồi, vị ấy biết như thật về ngoại thân.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, xem nơi Cõi Uất Đan Việt lại có những núi, sông, ao hoa… đáng ưa nào?
Dùng văn tuệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy Cõi Uất Đan Việt có một núi lớn tên là Thời Lạc, rộng một ngàn do tuần, cao ba mươi do tuần, sáu thời luôn tươi tốt.
Sáu thời là:
1. Đầu mùa đông.
2. Cuối mùa đông.
3. Đầu mùa xuân.
4. Cuối mùa xuân.
5. Đầu mùa hạ.
6. Cuối mùa hạ.
Vào thời thứ nhất có những loại hoa nào?
Đầu mùa đông có cây thường nở hoa, gọi là hoa Bất hợp. Kế nữa có hoa Kiên, hoa Đông, hoa Phong Phú, hoa Bà Khư La, hoa Thiện Hương, hoa Vô Nha, hoa Áp Âm, hoa Đệ Nhất, hoa Khả Ái, hoa Lương Lãnh Cụ Túc, hoa Thâm Sinh, hoa Dạ Khai, hoa Đệ Nhất Kiên, hoa Mặt Trời. Đấy là mười lăm loại hoa sinh ra nơi núi Thời Lạc vào đầu mùa đông giá lạnh.
Thời thứ hai vào cuối mùa đông, lại có hoa sen sinh ra nơi núi Thời Lạc, cõi Uất Đan Việt. Do nghiệp lành nên hoa A Đề Mục Ca theo từng niệm rơi rụng.
Đó là hoa Cưu La Bà Ca, hoa Bát Đầu Ma, hoa Bát Ma Ca, hoa Cứu La Bà Ca, hoa Đa Hương, hoa Phong Toàn, hoa Tam Ma Chá, hoa Vô Ưu, hoa Chân Thúc Ca, hoa Vô Ưu Xanh, hoa Bất Hợp, hoa Hương Câu Vật Đà, hoa A Di Đồ Ca, hoa Quật Sinh, hoa Hà Ngạn Sinh, hoa Ni Chi Lam, hoa Đỏ, hoa Bà Na Đế, hoa Điểu Ái, hoa Thường Khai, hoa Bách Diệp. Có hai mươi loại hoa như vậy sinh ra vào cuối mùa đông.
Và đến đầu mùa xuân như hoa A Đề Mục Ca… trải qua hai mùa trên núi Thời Lạc, ở cõi Uất Đan Việt.
Lại có các loại hoa sinh vào cuối mùa xuân như hoa Chiêm Bặc, hoa Tô Ma Na, hoa Thiện Sắc Tập, hoa Đồ Ma La, hoa Hương, hoa Phong Liên, hoa Trừ Cơ Hương, hoa Thi Lợi Sa, hoa Đỏ, hoa Đẳng Hương, hoa Thường Hương, hoa Đam Bà La Vị, hoa Phong Nuy, hoa Bách Diệp, hoa Úy Nhật, hoa Chư Lan Đế, hoa Hộ Sắc, hoa Đồ Trí La. Trong núi Thời lạc có hai mươi giống hoa như vậy sinh ra vào cuối mùa xuân.
Do sức nơi nghiệp lành của người dân Cõi Uất Đan Việt nên vào đầu mùa hạ ở núi Thời Lạc lại có các thứ hoa là Chi Đa Ca, hoa Cưu Tra Xà, hoa Xa Đa Bà Hi Nị, hoa Ca Đàm Bà, hoa Ni Chu La, hoa Do Đề Ca, hoa Tô Ma Na, hoa Long Thiệt, hoa Vô Gián Ái Lạc, hoa Thiện Vị, hoa Thiện Hương, hoa Phổ Diệp, hoa Nhất Thiết Nhiếp Thủ, hoa Chuyển, hoa Tỷ Cảnh Giới, hoa Ngũ Diệp, hoa Ái Vũ, hoa Ái Quán, hoa Đồ Ma, hoa Thủy Lưu, hoa Tuyết Sắc. Có hai mươi giống hoa như vậy sinh ra trong núi Thời Lạc vào đầu mùa hạ.
Do nghiệp báo lành của người cõi Uất Đan Việt, nên trong núi Thời Lạc vào cuối mùa hạ lại có các loại hoa khác, đó là hoa Tiếu, hoa Tô Ma Na, hoa Thường Chiêm Bặc, hoa Lâm Sinh, hoa Hư Không Chuyển, hoa Dạ Khả Ái, hoa Nhất Thiết Phương, hoa Lưu, hoa Du Hý Địa, hoa Lạc, hoa Sơn Cốc, hoa Lục Sinh, hoa Ca Đàm Bà, hoa Tỳ Dương Già, hoa Nga Toàn, hoa Tu Lưu Tỳ, hoa Đa Ma La Bà, hoa Thủy, hoa Nguyệt, hoa Hiểm Ngạn Thượng. Có hai mươi giống hoa như vậy sinh ra vào cuối mùa hạ.
Trong núi Thời Lạc, cõi Uất Đan Việt, cây cối, hoa quả, ao hồ, hoa sen thường thay đổi khắp nơi. Núi Thời Lạc này cũng luôn có tất cả hoa quả như các núi khác. Người sống nơi núi ấy gọi là Đà Lợi Chi Ma.
Lại nữa, người tu hành biết được quả báo của nghiệp, tạo sao chúng sinh nghiệp trước đã hết, không tạo nghiệp mới mà không biết nơi thời tiết luôn luân chuyển, khiến chúng sinh bị mất thân mạng. Thời tiết như lửa lớn thiêu đốt củi, mạng sống, như trận mưa đá tàn ác phá hủy cây mạng sống non màu mỡ, như sư tử nuốt hại người và thú, như sông chảy mãi cuốn người và cây cối trôi nổi đến một nơi khác.
Hết thảy pháp chết đều không thể tránh khỏi, tại sao chúng sinh không hiểu biết và không thấy sự già, bệnh, chết đã đùa cợt, phá hoại hết thảy sự cường tráng nơi niên thiếu và tất cả dục đã hủy hoại tất cả sức lực?
Sự khinh thường cười cợt nơi tất cả mọi người chính là gốc của sự gầy gò ốm yếu có thể hủy diệt nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Mũi dãi chảy tràn, lưng còng, không thể đứng thẳng, răng, khớp xương, gân mạch đều rã rời không thể đi lại tự tại, bị tuổi trẻ khinh chê. Khi sắp chết, chẳng còn chút hơi sức, đại tiểu tiện ra quần, ưa nằm nghỉ.
Tại sao chúng sinh không thấy được sự già yếu ấy mà lại ham phóng dật?
Do phóng dật nên không thấy thân sắc chắc chắn phải có bệnh tật. Do bệnh tật nên bốn đại không điều hòa, các căn không thuận hợp. Tất cả gân, thịt, da, máu, mỡ, tinh tủy đều khô kiệt, ghét tất cả mùi vị, không thể ngồi dậy, chỉ nhớ mong thầy thuốc để được an ổn.
Tất cả sự ăn uống vào miệng đều khó chịu, mỏi mệt, cực nhọc vô cùng, không thể đi đứng, muốn ngủ nhiều, thân thể gầy ốm, chỉ còn da bọc xương, tất cả thân tộc và vợ con đều xa lánh do thấy cái chết đáng sợ. Nhưng những chúng sinh này không hiểu biết. Người tu hành quan sát sự phóng dật của chúng sinh như thế rồi sinh tâm thương xót nên tu tập bốn phạm hạnh từ, bi, hỷ, xả.
Người tu hành quan sát người nơi Cõi Uất Đan Việt như vậy, khởi tâm thương xót, xem xét mọi biểu hiện nơi thân như giặc không khác. Thân như bọt nước, các thức như huyễn, sự giàu sang như giấc mộng. Quan sát như vậy rồi, vị ấy sinh lòng nhàm chán.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân, xem Cõi Uất Đan Việt lại có những núi rừng, sông hồ thù thắng, khả ái nào nữa?
Dùng văn tuệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy Cõi Uất Đan Việt có một núi lớn tên là Hoan Hỷ Trì. Núi này có rừng cây tên là Chu Biến, ngang dọc năm trăm do tuần, được tô điểm tạo sự trang nghiêm bằng tất cả những chất quý báu như vàng, bạc, đồng, các chất báu, chất rượu, mật, chất của sáu vị và các chất khác.
Khắp rừng ấy, hoa Tỳ Lưu Ly bò lan, quấn quanh hoa sen cánh vàng, cọng bằng bạch ngân, hoa vàng, lá bạc, thân Tỳ Lưu Ly, hoa sen tròn trịa như Mặt Trời mới mọc.
Những giống chim đủ loại khiến cho ao hồ ở vùng này thêm sinh động như: Vịt Trời, Ngỗng, chim Nông, chim Bà Ca, chim Vàng, chim Bạch Hầu, chim Già Sa, chim Ma Đầu Cầu, chim Uyên Ương, chim Ba Bà, chim Hạc, chim A Ta, chim Sa La Sa, chim Đề Di La, chim Bàcầu, chim Thời, chim Úy Nhiệt, chim Dạ Hành, chim Lạc Bát Đầu Ma Hoa Bộn, chim Tân Đầu Ba, chim Trụ Thủy Ba. Có hai mươi giống chim như vậy ở trong các ao hoa sen.
Qua khỏi rừng Phổ biến núi Hoan Hỷ Trì, ngay giữa núi khoảng năm trăm do tuần lại có vùng núi rộng năm trăm do tuần tên là Trúc Ngạn, có người sống trong núi này. Núi ấy có cây Quân Trì phát ra âm thanh ca hát rất hay, Thiên Nữ nghe thấy đều từ nơi hư không lắng nghe. Vườn, rừng, sông, hồ, ao hoa sen ở đây thảy đều đầy đủ như trước đã nói.
Lại nữa, người tu hành quan sát quả báo nơi nghiệp của các chúng sinh, như vậy, các chúng sinh này phải than khóc, cớ sao lại ca múa, vui cười mà không xem xét sự buông lung?
Chúng sinh ở địa ngục chịu khổ não, than khóc bi thảm, không biết vì bị lưới ái dục trói buộc, do thân, khẩu, ý tạo nghiệp ác nên bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chịu khổ báo lớn.
Chịu đủ thứ khổ báo rồi, lại như nghiệp đã tạo bị đọa vào địa ngục Hoạt, địa ngục Hắc Thằng, địa ngục Chúng Hợp, địa ngục Khiếu Hoán, địa ngục Đại Khiếu Hoán, địa ngục Tiêu Nhiệt. Chúng sinh do năm dục trói buộc, chìm nổi trong biển lớn sinh tử. Như vậy, người tu hành quán xét nghiệp báo nơi con người rồi thì nhận biết rõ về ngoại thân.
Lại nữa, người tu hành tùy thuận quán ngoại thân xem cõi Uất Đan Việt lại có những núi rừng đáng ưa nào?
Dùng văn tuệ hay thiên nhãn, vị ấy thấy nơi Cõi Uất Đan Việt có một núi lớn tên Tâm Thuận, ngang dọc một ngàn do tuần. Ở trong núi ấy thường có Khẩn Na La nữ sống nơi đỉnh núi ca hát rất hay.
Bên bờ sông, vườn rừng, chỗ đất bằng, hang núi có nhiều ao hoa. Có những khu vườn rừng như rừng Chi Đa Chi, Rừng Rồng, Rừng Na Lê Chi La, Rừng Bà Na Sa, Rừng Khư La, Rừng Am Bà, Rừng Vô Giá, Rừng Kim Tỳ La, Rừng Ca Ty Tha, Rừng Khổng Tước, Rừng Câu Sí La, Rừng Anh Vũ, Rừng Hà Trì, Rừng Liên Hoa, Rừng Ưu Bát La, Rừng Tân Đầu Ba Lợi Đa, Rừng Cưu La Bà Ca, Rừng Mạng Mạng Điểu, Rừng Đa La.
Như vậy, trong những khu rừng ấy có tất cả các thứ châu báu, những âm thanh du dương vi diệu. Hết thảy mọi người đều vui vẻ lắng nghe nên bị si ái che lấp, làm tăng thêm ngọn lửa tham ái.
Nếu có người nghe những âm thanh ca hát của Khẩn Na La nữ thì chỗ tham ái càng tăng gấp bội. Chú nai đói nào đang ăn cỏ trong miệng, nghe những âm thanh ca hát ấy thì bất giác cỏ rơi rớt xuống. Chim chóc bay nhảy trên cây, cùng nhau vui đùa, mổ ăn những trái cây ngon ngọt, nếu nghe những âm thanh này thì đều dừng lại.
Bầy ong nghe những âm thanh ấy thì không hút những mùi vị ngọt. Tiên Nhân nào đang bay trong hư không, nghe âm thanh này thì cũng dừng lại không bay nữa. Như vậy, âm thanh của Khẩn Na La nữ trong rừng Tâm Thuận rất là êm tai, vui thích.
Núi này toàn là Tỳ Lưu Ly báu, vàng, bạc làm đá, san hô làm cây, chân châu làm cát, ao bát bà la có hoa sen bằng pha lê, có loài ngỗng trắng, màu sắc như vỏ ốc. Lại có những con nai xinh đẹp bằng bảy báu, nơi vườn rừng có các thứ chim như Câu Sí La, Khổng Tước, Mạng Mạng… tiếng hót của chúng rất dịu dàng.
Cũng có các ao nước, những bầy ong với màu sắc rực rỡ như vậy. Hết thảy mọi người trong núi Tâm Thuận, hoặc thấy hoặc nghe lòng đều sinh ưa thích, ham muốn. Tất cả nam nữ đến núi dạo chơi luôn vui vẻ cười đùa, lòng khoan khoái.
Núi Tâm Thuận lại có việc đáng ưa thích thứ hai là: Như ánh sáng của núi Tu Di phát ra từ trên cao chiếu sáng đến hai trăm dotuần, còn ánh sáng nơi núi Tâm Thuận thì từ trên tỏa chiếu đến hai ngàn do tuần.
Ánh sáng ấy trong suốt làm cho ánh sáng của cây vàng, ánh sáng của núi Tỳ Lưu Ly, hết thảy đều thành màu trắng. Giống như ánh sáng vàng ròng nơi trên núi chúa Tu Di khiến cho cỏ cây gần đó đều thành sắc vàng, ánh sáng nơi núi Tâm Thuận cũng khiến cho tất cả cầm thú, sông hồ, ao nước, cây hoa đều biến thành màu trắng.
Do sức sáng trên núi Tâm Thuận mà có giống người Bạch Nhân sống nơi núi ấy, ánh sáng cũng màu trắng, có nhiều sức lực đoan nghiêm, thường vui vẻ, rất thanh tịnh, dùng các thứ hương vi diệu xoa thân, trang sức bằng tràng hoa, ca hát, cười đùa, ưa thích âm thanh, không có ganh ghét, không có tâm về ngã và ngã sở, cũng không ngã mạn.
Tất cả ánh sáng đều biến thành màu trắng, cũng dùng các thứ hương bột xoa thân, những âm thanh ca hát người nghe đều vui thích. Cây như ý sinh ra loại rượu thơm ngon, uống vào không bệnh hoạn. Tùy theo ý nghĩ của giống người ở đây mà áo từ nơi cây sinh ra, không có khác biệt giữa chỉ khâu ngang dọc. Vô số các thứ ăn uống, các vật trang sức cũng như vô số các loài chim hót rất hay, khiến người ngủ mê say.
Lại có những giống chim cũng hót rất hay, làm cho người tỉnh giấc. Các loại ao hoa sinh ra nhiều giống hoa. Như vậy, giống người có ánh sáng trắng chịu nghiệp quả giống như nghiệp lành bậc thượng, trung, hạ của họ đã tạo mà hưởng sự vui thích.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba