Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bảy Mươi Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT
KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM SÁU
PHẨM QUÁN THIÊN
DẠ MA THIÊN
TẬP BẢY MƯƠI TÁM
Lại nữa, pháp cấu nhiễm thứ mười người trí cần phải xả bỏ là nghèo nàn.
Có hai loại nghèo nàn:
1. Nghèo giới.
2. Nghèo trí.
Lại có hai loại khác:
1. Nghèo bố thí.
2. Nghèo trí tuệ.
Có hai loại khác:
1. Dòng họ bần cùng.
2. Nghèo kiến thức.
Lại có hai thứ nghèo khác:
1. Nghèo của báu.
2. Nghèo Đạo Sư.
Có hai loại nghèo nàn:
1. Nghèo thân tộc.
2. Nghèo người quen.
Tất cả sự nghèo nàn đều đáng khinh chê. Cách đoạn trừ nó là bố thí. Việc bố thí có thể trừ bỏ tất cả sự bần cùng, giống như đèn sáng có thể diệt trừ bóng tối, trí tuệ có thể diệt trừ mọi thứ ngu si, chánh kiến diệt trừ tà kiến, chánh pháp diệt trừ phi pháp. Bố thí là pháp hơn hết, là việc các người trí ưa thích. Nó đoạn trừ đường ác làm cho ta được an ổn trong hiện tại và vị lai.
Ta phải bố thí cách nào?
Bố thí có nhiều loại là bố thí trì giới, an ổn, chỉ đường thánh, chỉ lối cho người bị lạc đường, đem nước uống cho người đi đường, bố thí thân mạng, vô úy, thật ngữ, dứt nghi ngờ, năm giới, giới Xuất Gia, giới cụ túc, thuốc trị bệnh và bố thí mắt.
Các loại bố thí này giống như cha mẹ, có thể làm lợi ích cho ta trong hiện tại và vị lai. Sau khi thường tư duy như vậy ta sẽ dứt bỏ sự nghèo nàn, dứt bỏ đường ác, hưởng an lạc ở Cõi Trời, người, sau khi thọ hưởng an lạc rốt cuộc đắc Niết Bàn.
Việc bố thí có thể trừ bỏ sự nghèo nàn vì vậy người có trí tuệ cần thực hành bố thí.
Pháp tối tăm thứ mười một là pháp trói buộc chúng sinh trong đường sinh tử. Pháp đó là không có trí tuệ, vô tri, là bóng tối vô minh trói buộc sự sống, là đống tối tăm đè nặng trên cổ. Sự vô tri như dao, như lửa, như chất độc. Sự vô tri là nhân duyên sinh ra tất cả vô minh, làm cho chúng sinh trôi lăn trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, có thể trói buộc chúng sinh làm họ luân hồi sinh tử.
Làm cách nào để diệt sự cấu nhiễm đáng ghét này?
Chỉ có trí tuệ vô lậu là có thể diệt trừ nó. Trí tuệ vô lậu giống như đèn sáng, là nơi cứu giúp và cho ta nương tựa. Đối với chúng sinh trí tuệ vô lậu giống như cha mẹ, thầy thuốc, thuốc hay. Nó dứt trừ vĩnh viễn dây trói vô tri.
Như rễ cây bị cắt đứt thì cây không thể sống, củi khô bị lửa đốt thì không sinh lại, nước chảy xuống rồi không chảy ngược trở lên, bị trí vô lậu thiêu đốt sự vô tri không sinh trở lại cũng giống như vậy. Vì thế, trong mọi lúc, ta phải siêng năng tinh tấn dùng trí vô lậu dứt bỏ sự vô tri.
Trên đây đã nói về mười một pháp gốc rễ của phóng dật. Chúng đi theo phóng dật và do phóng dật sinh ra. Vì vậy ta nên bỏ hết tất cả sự phóng dật. Mọi thứ gốc rễ của phóng dật đều không có lợi ích, có thể trở thành phóng dật.
Giống như tất cả cỏ thuốc, rừng, sông suối, thành ấp, xóm làng, vườn cây, núi Tu Di đều dựa vào mặt đất mà có, cũng như vậy, tất cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đều do phóng dật sinh ra. Vì thế, người trí phải xa lìa nó.
Khi ấy, Vua Trời Dạ Ma nói kệ:
Người già da nhăn nheo
Yếu ớt chống gậy đi
Già mà không biết pháp
Chính là do phóng dật.
Bệnh tật hủy hoại thân
Nằm bẹp trên giường chiếu
Mà không sinh nhàm chán
Đều là do ngu si.
Nếu ai bị đói khát
Hoặc vào đường hiểm ác
Mà không sinh nhàm chán
Đều là do phóng dật.
Ai xa lìa người thương
Mà sinh ra khổ não
Đó là do phóng dật
Như Lai nói như vậy.
Nếu ở trong năm đường
Chịu đủ mọi thứ khổ
Chúng sinh thường khổ não
Là do họ ngu si.
Than ôi không nhàm chán
Luân hồi trong các cõi
Các nghiệp luân chuyển mãi
Tuần hoàn không tạm dừng.
Ba cõi đều không vui
Không có gì thường còn
Vậy mà người ngu si
Không biết sinh nhàm chán.
Cảnh giới đều rỗng không
Ba cõi giống như mộng
Tất cả đều là khổ
Không mắt, không thấy biết.
Người ngu si như vậy
Bị phóng dật làm hại
Lúc thần chết sắp đến
Không ai cứu giúp được.
Bị cảnh tượng bất thiện
Làm não loạn tâm ý
Thần chết đã sắp đến
Mà ta không hay biết.
Thần chết lại sắp đến
Đoạt mạng sống con người
Ba thứ không lợi ích
Não hại các chúng sinh.
Nỗi khổ già, bệnh, chết
Do phóng dật sinh ra
Mong cầu não hại người
Phóng dật hại Chư Thiên.
Đói khát hại ngạ quỷ
Địa ngục bị khổ não
Súc sinh nhiều ngu si
Nên đã tàn hại nhau.
Các khổ não như vậy
Làm hại các chúng sinh
Do làm việc phi pháp
Vì ngu si phóng dật.
Giống như nhờ đất mẹ
Các loại cỏ thuốc sinh
Phóng dật cũng như vậy
Làm tăng các phiền não.
Nhóm đại thần đứng đầu
Quân binh của Ma Vương
Dùng trí kim cương đánh
Như ánh sáng trừ tối.
Qua bài thuyết pháp này
Biết công đức và lỗi
Phóng dật sẽ chịu khổ
Không phóng dật thì vui.
Vị Vua Trời Dạ Ma
Đã chỉ rõ như vậy
Tội lỗi của phóng dật
Công đức không phóng dật.
Các khổ, già, bệnh, chết
Ái biệt, oán tắng hội
Vô số các khổ não
Đầy khắp đường sinh tử.
Người nào biết phương tiện
Ngăn nỗi khổ đời sau
Nghiệp ác là nhân khổ
Không làm ác được vui.
Diệt phiền não rất vui
Người trí nói như vậy
Đây là đường Niết Bàn
Là nơi bậc trí nói.
Thu phục, không phóng dật
Sống ở nơi vắng vẻ
Dũng mãnh lìa tâm tham
Cách Niết Bàn không xa.
Lìa kẻ thù, bà con
Để thoát khỏi Cõi Dục
Cảnh giới không phóng dật
Cách Niết Bàn không xa.
Người nào bỏ việc ác
Tu dưỡng tâm từ bi
Sợ hãi việc sinh tử
Cách Niết Bàn không xa.
Dùng trí trừ phiền não
Tâm trí tuệ trong mát
Vượt qua sự biếng trễ
Cách Niết Bàn không xa.
Tương ưng với bốn đế
Dứt ba loại tội lỗi
Làm chủ được các căn
Cách Niết Bàn không xa.
Biết cách quán hơi thở
Tu hành hai loại tướng
Thấu rõ hết mọi việc
Cách Niết Bàn không xa.
Nếu thoát khỏi lỗi lầm
An lạc không trói tâm
Giúp người đến bờ kia
Nên gọi là Mâu Ni.
Vua Trời Dạ Ma nói cho các chim thuyết pháp, ngỗng chúa Thiện Thời nghe Kinh Đức Phật Ca Diếp đã dạy. Để họ xa lìa phóng dật, Thiên Chủ đã nói vô số chánh pháp với âm thanh thù thắng, vi diệu, có sức thuyết phục.
Nghe chánh pháp xong, nhóm đại thần phóng dật, quân binh của Ma Vương nghĩ: Ta không thể làm lay chuyển Vua Trời Dạ Ma. Pháp này thật sâu xa, khó hiểu, không thể xoay chuyển.
Nghĩ xong họ nói với đồng bọn: Không thể làm Mâu Tu Lâu Đà thay đổi lòng tin dù một câu trong đạo pháp này.
Sau khi suy nghĩ như vậy, thế lực của ma bị giảm yếu, ý nghĩ trước đây tan biến, oai đức bị mất hết. Họ bay lên hư không và trong chốc lát đã đến cung Trời Tha Hóa Tự Tại gặp ma Ba Tuần.
Khi ấy, tất cả sứ thần của Ma Vương nói: Việc các ông làm có được như ý không?
Có được trọn vẹn không?
Nghe hỏi, ba vị đại thần thưa với Ma Vương: Thưa Thiên Vương, chúng tôi bị mất thế lực, Vua Trời Dạ Ma Mâu Tu Lâu Đà có trí tuệ lớn, không thể làm ông ta thay đổi lòng tin cho đến một câu ở trong chánh pháp, Thiên Chúng của ông ta cũng như vậy. Do đó tôi không thể làm não loạn họ.
Nghe xong, ma Ba Tuần nghĩ: Ta có thể làm cho các vị Trời phóng dật sống trong Cõi Dục. Tuy có sức mạnh nhưng do phóng dật, họ phải ở trong cảnh giới của ta.
Sau khi suy nghĩ, Ma Vương bảo chúng ma: Về sau, ta có thể phá Trời Dạ Ma, các ông chớ có hấp tấp, ta có sức mạnh thì có thể làm rối loạn tất cả Thiên Chúng. Sau này ta có thể phá họ.
Nói xong, ma Ba tuần lại hưởng thú vui của lục dục không gì sánh bằng, tạo nên vô số thú vui trên đất phóng dật.
Vua Trời Dạ Ma, chim thuyết pháp, ngỗng chúa Thiện Thời đã thuyết giảng vô số pháp đẩy lùi quân ma phóng dật. Lúc đó, Chư Thiên đã làm xong công việc của mình.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba