Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bốn Mươi Bảy

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM SÁU

PHẨM QUÁN THIÊN

DẠ MA THIÊN  

TẬP BỐN MƯƠI BẢY  

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca Diếp nói kệ:

Ai chỉ đời vị lai

Người ấy là bạn lành

Ai hay ngăn nẻo ác

Lại hay cứu tai họa.

Thường thuyết pháp lợi ích

Lợi lạc đời vị lai

Ấy là người bạn lành

Làm bạn được lợi ích.

Người bạn thù thắng này có vô lượng loại, vô lượng sự sai khác, thuyết pháp đủ cách, chẳng tham ăn uống, vào nhà một cách cung kính, không chỉ bày ta ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, được gọi là bạn.

Còn người bạn như đã nói ở trước chẳng phải là bạn lành, Tỳ Kheo lành nên lìa bỏ không nên gần gũi một người bạn như vậy, huống chi là gần gũi nhiều người bạn như thế. Nếu gần người như vậy sẽ sinh vô lượng lỗi.

Nếu người bạn nào tạo điều bất lợi cho đời vị lai thì tuy gọi là bạn nhưng thật ra là oan gia. Tỳ Kheo nào gần người bạn ấy liền phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Lại nữa, pháp ác chướng ngại thứ mười ba làm ngăn cản việc tọa thiền, tụng Kinh của Tỳ Kheo cho nên Sa Môn phải lìa bỏ.

Pháp thứ mười ba là Tỳ Kheo cùng ở một chỗ với điều ác. Tất cả Tỳ Kheo đều cùng ở một chỗ với điều ác thì phế bỏ việc tọa thiền, đọc tụng.

Ở cùng chỗ với ác gồm có năm loại.

Những gì là năm?

Đó là Tỳ Kheo giữ tịnh giới và pháp lành bậc nhất, có tâm ngay thẳng mà cùng ở một chỗ với người ác, phá giới bậc nhất, tự mình không có quyền lực gì hết. Đó là ở cùng chỗ với điều ác thứ nhất.

Ở cùng chỗ với điều ác thứ hai là: Tỳ Kheo chưa được vững vàng hoặc đã vững vàng mà cùng đi với người tà kiến, hoặc ở thôn, hoặc ở thành, hoặc ở nơi nhiều người, cùng đi, cùng ở. Đó là ở cùng chỗ với điều ác thứ hai.

Lại nữa, ở cùng chỗ với điều ác thứ ba là: Tỳ Kheo thường ưa gặp bạn thân, muốn đến gần họ, cùng đi theo nhau đến nhà trước đây đã ở khi còn tại gia. Đó là ở cùng chỗ với điều ác thứ ba.

Ở cùng chỗ với điều ác thứ tư là: Tỳ Kheo sợ người khác khinh chê, do cần hiểu biết nên đến nơi luận sư ác ở để thân cận làm quen. Đó là cùng ở với điều ác thứ tư.

Ở cùng chỗ với điều ác thứ năm là: Tỳ Kheo tâm ý loạn động, không thể hành động đàng hoàng, đối với đồ ăn, thức uống đã dọn sẵn hoặc ngọa cụ trải sẵn, Tỳ Kheo này hoặc đến ăn trước, hoặc đến uống trước, hoặc nằm trước, đến gần phụ nữ, hoặc là nhớ nghĩ, tư duy về các loại sắc, thanh, hương, vị, xúc đã từng thọ hưởng lúc trước.

Họ nhớ nghĩ cảnh giới và bị việc nhớ nghĩ cảnh giới phá hoại, tất cả chỗ khác đều có thể tránh nhưng cảnh giới này thì không thể tránh. Do việc xấu ác nhất này, tất cả việc tọa thiền, đọc tụng đều bị ngăn ngại rất lớn.

Những nơi ác khác đều có thể tránh nhưng chỉ một chỗ này rốt cuộc không thể tránh, đó là thú vui nơi cảnh giới hiện ra từ nơi tâm, việc phân biệt xấu ác rất khó tránh, chỉ trừ tọa thiền, nhập định, quán xét chân chánh mới có thể tránh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Ca Diếp nói kệ:

Không nhìn kỹ hướng gió

Bị thổi lửa cháy hừng

Biết quan sát Trời mưa

Diệt lửa tắt không còn.

Chúng sinh trước đã có

Vô minh tối lâu đời

Nếu thắp đèn trí tuệ

Sẽ diệt hết vô minh.

Lửa si, dục thiêu đốt

Người ngu trong địa ngục

Người trí thì không vậy

Do đó đắc Niết Bàn.

Mười ba pháp như vậy

Ánh sáng trí diệt trừ

Cho nên người sợ tội

Thường phải siêng giữ giới.

Nhổ bậc ra khỏi thân

Ba loại gốc tội lỗi

Dùng lửa lớn trí tuệ

Thiêu cháy củi phiền não.

Như trên đã nói, phải tạo phương tiện để xa lìa việc ở cùng chỗ với điều ác.

Thầy Sa Môn đã xuất gia thà đi một mình, đừng nhớ nghĩ nhiều, cũng đừng bê trễ, đừng nhớ đừng thích thôn cũ, thành cũ, những nơi đông người khi xưa và các việc vui trong quá khứ.

Đừng nhớ nghĩ, ưa thích ngày lễ hội khi xưa ở nơi đông người, cũng đừng nhớ nghĩ mong muốn được thấy những chỗ mình đã du ngoạn khi xưa, đừng thu nhận các đệ tử ác, không gần gũi các bạn ác, không ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, không sinh tâm ô nhiễm.

Đừng hành động bất chánh, tâm chớ kinh động, cũng đừng mong cầu đồ ăn, thức uống, thuốc chữa bệnh và đồ đạc cần dùng, đừng mặc ca sa nhiều màu sắc, cũng đừng tìm cách ũi, hồ cho bóng láng, lúc tắm rửa đừng lấy bàn chân lau chùi, chà đạp thân thể, đừng nói năng bừa bãi đủ thứ chuyện, có như vậy mới thiêu đốt, tiêu diệt được sự tối tăm tích tụ từ vô thỉ đến nay.

Năm căn và cảnh giới sáu trần là cửa của đường sinh tử cực ác. Ngọn lửa phân biệt phát khởi ra địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thường thiêu đốt tất cả phàm phu ngu si trên thế gian làm họ trôi lăn khắp nơi, bị thiêu đốt, tan rã, vào trong biển khổ. Vậy mà chúng sinh vẫn chưa nhàm chán việc trôi lăn nơi sinh tử nên bỏ bê việc giữ giới.

Nếu người sinh lên Trời, phóng dật bậc nhất, về sau thoái đọa khỏi Cõi Trời ấy, xa lìa những người bạn thù thắng trước đây, sinh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thọ khổ vô cùng, bị lửa buồn rầu thiêu đốt, không ai cứu giúp, bị phóng dật phá hoại.

Vì những lý do như vậy, các chúng sinh nào lo sợ bị thoái đọa đều phải tu tập chánh pháp một cách thường xuyên, không gián đoạn. Pháp luật này là do tất cả các Đức Phật dạy để đoạn trừ phóng dật của các vị Trời phóng dật.

Người nào được sinh Thiên đều do sức của việc trì giới. Nếu có người nào khéo điều phục tâm thì không được bảo rằng người này chết. Khi thân hoại mạng dứt, người này sinh vào đường lành là Cõi Trời.

Tất cả Thiên Chúng các ông chưa biết nguyên nhân sinh ở Cõi Trời này là do sự coi trọng hay coi khinh giới. Vì muốn cho các ông được lợi ích nên ta chỉ dạy rõ về nghiệp ấy, thuyết mười ba Pháp Môn này. Cõi Trời, cõi người làm nhân duyên lẫn nhau. Cõi người thì có thể trì giới, Cõi Trời thì không thể trì giới. Người chết sinh Thiên, nếu không phóng dật, khi thoái đọa sinh trở lại làm người.

Do nhân duyên đó, ta nói Kinh này, Đức Phật Ca Diếp Như Lai làm lợi ích cho hàng Trời, Người, khiến được an lạc cho đến Niết Bàn, tạo lợi ích cho tất cả thế gian như vậy.

Bấy giờ, Thiên Vương Dạ Ma Mâu Tu Lâu Đà và Thiên Chúng ở nơi ấy rất là nhàm chán, tuy sống ở cõi dục nhưng không buông lung theo dục lạc. Tất cả đều thành tựu hạnh không phóng dật, đảnh lễ Tháp Phật Ca Diếp Thế Tôn. Tâm họ thanh tịnh, tất cả Chư Thiên ấy đều trở về chỗ cũ.

Kinh thứ sáu là Kinh của Đức Phật Ca Diếp đã hết.

Pháp này gọi là sáu Kinh được lưu hành ở vùng đất có đầy đủ cây cối.

Khi ấy, tất cả Thiên Chúng đều ra khỏi Tháp của Phật Ca Diếp, hỏi Thiên Chủ Mâu Tu Lâu Đà: Vì sao Thiên Vương biết được Tháp Phật này?

Sau khi Thiên Chúng hỏi như vậy, Thiên Chủ Mâu Tu Lâu Đà bảo: Tất cả Thiên Chúng các ông hãy lắng nghe: Ta có nhân duyên được thấy Tháp này trước.

Lúc trước, khi mới sinh ở Cõi Trời này, ta sống buông lung, ưa thích cảnh giới, bị năm sợi dây trói buộc, đi khắp Cõi Trời Dạ Ma này, vui chơi thọ hưởng công năng của năm dục, đi khắp nơi, từ một vườn đến một vườn, từ núi đến núi, từ hang núi đến hang núi, từ sườn núi đến sườn núi, từ một ao sen đến một ao sen, từ một ngọn núi đến một ngọn núi, có nhiều đến vô lượng trăm ngàn Thiên Tử bị chúng Thiên Nữ vây quanh.

Các Thiên Nữ ấy có vô lượng trăm ngàn đồ đạc trang sức, ca múa vui đùa, dạo chơi quây quần phía trước Thiên Tử. Lúc ấy, ta quán khắp như vậy về Cõi Trời này, ham thích, đắm nhiễm vào cảnh giới năm dục, tâm sinh vui thích, bị tham ái dẫn dắt. Ta đi ở ba chỗ đều không bị trở ngại.

Đó là ở trong nước, trên lưng ngỗng, từ lưng một con ngỗng đến lưng một con ngỗng, kế đến lại trên lưng uyên ương, từ một con uyên ương đến một con uyên ương, kế đó lại cỡi trên lưng vịt, từ lưng một con vịt đến lưng một con vịt, kế đến lại ở trong hoa sen, từ một hoa sen đến một hoa sen, ở trên sóng nước từ ngọn sóng đến ngọn sóng, tùy ý mà dạo chơi khắp nơi, không có trở ngại. Tất cả đều vui chơi ca múa, tươi cười, đi chơi như vậy, tâm rất hoan lạc.

Ta đã dạo chơi đủ cách như vậy rồi, lại nghĩ đến trò chơi khác ở trên đất, cỡi trên cung điện có trăm ngàn cung nữ chung quanh, từ núi đến núi, từ một hang núi đến một hang núi, từ vườn đến vườn, từ khe núi đến khe núi, khi ấy ta đi ở mọi nơi không có trở ngại.

Lần lượt như vậy, ở trong hư không lại cỡi cung điện có trăm ngàn Thiên Chúng vây quanh, tạo các loại âm nhạc Cõi Trời phát ra âm thanh vi diệu, ca múa vui cười, vừa đi vừa chơi, khắp tất cả Cõi Trời này, thấy đủ loại nơi khác nhau không thể nói, nơi có nhiều bảy báu chiếu ra ánh sáng rất vi diệu.

Ở ngọn núi như vậy, chỗ nào cũng thấy có trăm ngàn cây được trang sức bằng bảy báu, lần lượt như vậy lại thấy sông có trăm ngàn hoa sen tập trung trên bờ, nơi nơi đều có hoa sen xinh đẹp. Ta và Thiên Chúng đều thấy như vậy ở trên hư không, ngó xuống các thứ dục lạc đầy đủ công đức.

Trên Cõi Trời này, chỗ nào cũng có trăm ngàn loại cung điện, ta thường đi lại không bị ngăn ngại ở ba nơi là nước, đất liền và hư không, đi chơi như vậy thọ hưởng đủ loại dục lạc.

Lại có lúc ta trông thấy sáu ngọn núi có sáu ánh sáng vọt lên hư không, màu sắc rõ ràng, không biết là vật gì.

Thấy rồi ta sinh tâm thán phục và thường nghĩ: Cái mà ta thấy đây xưa nay chưa từng có, đó là vật gì vậy?

Nghĩ như vậy rồi, ta liền cùng với cung điện và tất cả Thiên Chúng tiến mau về phía trước đến chỗ sáu ánh sáng đó. Khi đến nơi ta và cung điện đều bị rơi xuống, tất cả oai đức và ánh sáng ta có trước đây đều bị giảm sút.

Lúc ấy, ta nghĩ: Đây là vật gì, là thế lực gì mà khiến cho thân ta và Thiên Chúng này tất cả đều rơi xuống, tất cả ánh sáng và oai đức đều bị giảm sút!

Sau khi suy nghĩ, ở trong Thiên Chúng có một vị Trời kỳ cựu tên là Vô Cấu Quảng.

Vị Thiên ấy trước kia đã thấy sáu loại ánh sáng của sáu ngọn núi như vậy mới nói với ta: Xin Thiên Vương đừng có sợ, Thiên Vương không có lỗi gì. Lúc này Thiên Vương không có gì chẳng lành, xin Thiên Vương lắng nghe.

Vì lý do gì mà nay Thiên Vương và Thiên Chúng bị rơi từ trên không xuống. Trong quá khứ từng có vô lượng Thiên Vương đã từng đi trên hư không ở nơi này, không thể vượt qua và đều rơi xuống như vậy. Từ trước đến nay, Thiên Vương chưa từng được nghe do không biết nên muốn vượt qua như vậy liền bị rơi xuống, tất cả oai đức và ánh sáng đều sắp tắt.

Nay tôi nói lý do này cho Thiên Vương nghe: Ở vùng đất cây cối sum suê có tạo sáu bảo Tháp của sáu Đức Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Bậc Thiên Trung Thiên là những bậc hiểu biết như thật về tất cả thế gian, để làm lợi ích cho hàng Trời, Người. Tháp Phật này là nơi nên lễ bái, nên cúng dường. Ai lễ bái, cúng dường đều được sức mạnh.

Vì sao?

Vì không có gì hơn Tháp ấy.

Tháp Phật này không ai được đi qua. Do nhân duyên ấy nên hôm nay Thiên Vương bị rơi xuống như vậy.

Khi đó ta bảo với Vô Cấu Quảng: Phật ở nơi nào?

Vô Cấu Quảng liền thưa: Ngày nay thì không còn, tất cả thế gian đều không có, vị ấy biết tất cả, thấy tất cả, biết tội lỗi xấu xa của tham dục, biết các khổ não ở trong sinh tử rồi, siêng năng tu tập sáu pháp Ba La Mật, đủ ba A tăng kỳ kiếp, được tất cả trí rồi nhập Niết Bàn. Đó là nói tóm lược. Muốn được nghe rộng rãi, hãy xem Tháp Phật này sẽ được nói rộng. Sáu Tháp Phật này ở tại vùng đất có đầy đủ cây cối.

Khi ấy, nghe vị cựu Thiên tên là Vô Cấu Quảng nói, ta sinh tâm thán phục, thấy thế lực rồi liền cùng vị Trời kỳ cựu Vô Cấu Quảng và Thiên Chúng đến chỗ Tháp Phật. Đến rồi suy nghĩ, vì muốn nghe pháp vượt sinh tử, nên vào Tháp Phật. Đã vào Tháp rồi, được nghe pháp mà Đức Phật Thế Tôn ấy đã giảng nói.

Bấy giờ, được nghe Thiên Chủ Mâu Tu Lâu Đà nói như vậy, Thiên Chúng đều từ giã Thiên Vương đi về chỗ ở của mình. Thiên Vương Mâu Tu Lâu Đà cũng về chỗ ở từ trước đến nay của mình. Việc nói về Tháp Phật đã xong.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần