Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Bảy - Bát Nhã Ba La Mật đa đại Tâm Kinh - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN BẢY
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA ĐẠI TÂM KINH
TẬP BA
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở ngay trong Đại Hội, nói Bát Nhã Ba La Mật với nói phương tiện lợi ích của pháp chân ngôn này, hay khiến cho tất cà hàng người, phi nhân nghe Đà La Ni này đều phát tâm vô thượng bồ đề, hồi hướng các quốc độ Phật khắp mười phương, sẽ được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thường sanh vui vẻ.
Khi ấy, trong chúng có mười sáu vị Đại Dược Xoa Tướng tên là: Đạt Lý Để La Sắt Tra Đại Tướng, Cấm Tì Lỗ Đại Tướng, Phạ Nhật Lỗ Đại Tướng, Ca Vĩ Lỗ Đại Tướng, Di Đổ Lỗ Đại Tướng, Khiếm Nộ Tì Đại Tướng, A Nễ Lỗ Đại Tướng, Sa Nễ Lỗ Đại Tướng, Ấn Nại Lỗ Đại Tướng, Ba Di Lỗ Đại Tướng, Ma Vĩ Lỗ Đại Tướng, Kiều Vĩ Lỗ Đại Tướng, Chân Đặc Lỗ Đại Tướng, Phạ Tra Đồ Lỗ Đại Tướng, Vĩ Ca Lỗ Đại Tướng, Câu Phệ Lỗ Đại Tướng.
Có nhóm mười sáu vị Đại Dược Xoa Tướng như vậy đều theo đem bảy ngàn các hàng quyến thuộc, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật.
Rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nay trong Chúng này, tất cả Trời, Người đã nghe Đức Phật dạy bảo diệt tất cả tội, chẳng bị đọa vào ba đường. Địa ngục, quỷ đói, súc sinh, gieo trồng mầm giống của Phật. Chúng con, Dược Xoa Tướng cũng lại như vậy, đã nương nhờ ân của Phật, chúng con quy mạng Phật Pháp Tăng Bảo thường tùy ủng hộ Phật. Buddha, pháp. Dharma, Tăng Chúng. Saṃgha.
Nếu có vị vua, Đại Thần, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di… với tất cả chúng sanh thọ trì pháp này. Hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc nghe, hoặc nhớ, hoặc lại niệm Phật, hoặc ngồi Thiền… thì chúng con, mười sáu Dược Xoa Đại Tướng với các quyến thuộc tùng theo nơi hành ấy mà vệ hộ.
Nếu thành ấp trong nước, hoặc trong thôn xóm, hoặc trong rừng Không Nhàn… nhóm như vậy, nếu có người niệm tên bát nhã Ba la mật đa thì chúng con, quyến thuộc thảy đều ủng hộ.
Nếu khi người trì bát nhã Ba la mật đa này thời, chợt gặp tất cả các việc nạn thì chúng con, quyến thuộc cùng nhau ủng hộ.
Nếu lại có người muốn được bát nhã Ba la mật đa thành tựu thì chúng con, quyến thuộc khiến cho mãn nguyện ấy.
Lúc đó, Đức Phật khen các Dược Xoa Đại Tướng rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông với quyến thuộc hay ở chỗ sở tại của bát nhã Ba la mật đa mà làm ủng hộ, vì các chúng sanh đời vị lai cho nên nói pháp tu hành.
Bấy giờ các hàng Dạ Xoa Vương nói rằng: Nếu vị vua. Hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.
Hoặc người mà tâm hay tin hiểu thâm sâu công đức, uy lực tự tại, Đà La Ni thành tựu thuộc bát nhã Ba la mật đa của ta… lại cần chúng ta: mười sáu vị với quyến thuộc đi đến giúp đỡ hộ vệ thì các ngươi có thể y theo pháp này của ta.
Như lúc trước kết hộ, rộng dựng Đạo Tràng, làm Đàn pháp, cầu các lợi ích, vận nước kéo dài, người dân an vui, bốn phương không có việc, tai họa chẳng xâm phạm, gìn giữ rường cột không có các bệnh khổ… thì nên thỉnh Trì Minh Sư thanh tịnh, không luận Đạo Tục.
Đạo thể tương đồng hạnh thuần thục, từ bảy người cho đến mười bốn, hai mươi mốt người trong sạch trì giới, hạnh đức Tôn Trưởng… nên ở một chỗ, lập riêng nhà bếp. Trù thiện cung cấp cho các vị thầy. Chọn lấy Thắng Địa không luận là bên trong Chùa, Đình Viện, Điện Đường rộng lớn.
Nếu gần Phù Đồ Xá Lợi Śarīra stupa: Tháp Xá Lợi, Tháp Miếu. Hoặc vườn rừng đẹp, núi nổi tiếng, nơi thanh tịnh… dựng làm Đạo Tràng.
pháp của Đạo Tràng ấy là: Đào bỏ vật ác, lấy đất sạch lấp nện cho bằng phẳng. Như lúc trước đã nói, lấp nện bằng phẳng xong, lại dùng phân bò sạch hòa với nước nóng thơm làm bùn xoa tô đất ấy, dùng phấn ngũ sắc làm ba lớp viện, ba lớp đều mở bốn cửa.
Nội Viện trong lớp thứ ba làm một mặt trăng tròn, chính giữa an tượng bát nhã Ba la mật đa Bồ Tát hướng mặt về cửa Tây, bên phải tượng ấy an Đế Thích Thiên. Indra, bên trái an Phạm Ma Thiên.
Brahma, mặt Đông an Sứ Giả. Ceṭa, mặt Tây an Trì Minh. Vidyā dhāra. Bốn phương bên ngoài của lớp thứ nhất đều xếp bày tượng của bốn vị Thần Vương, bốn phương đều có bốn vị, tổng số tức là mười sáu vị Thần Vương.
Nếu muốn vẽ thì bên trong lớp thứ nhất vẽ trước cũng được. Trì Minh Sư ấy vào bên trong lớp thứ ba, ngay trước tượng bát nhã Ba la mật đa, trước tiên thỉnh bát nhã Ba la mật đa Bồ Tát, tiếp theo thỉnh hàng Phạm Thiên, tiếp theo thỉnh triệu mười sáu vị.
Thần Vương ở bốn mặt rồi an trí với nhóm Sứ Giả.
20. Thỉnh Thập Lục Dược Xoa Đại Tướng chân ngôn Ấn dùng Sứ Giả Ấn:
Na mô la đát na đá la dạ da đá điệt tha ha ha hề hề hô hô hí lợi, hí lợi di lợi, di lợi đỗ minh, đồ đỗ mê tỳ già bà hứ ni tỳ ma la bà hứ ni để lý ninh để lý ba la để yết lạn đà tỳ đa trì chất đát la kê đô bát labà tát bà lê cụ hề lê càn đà lê chiên trà lợi xa xà ni cụ la già lợi ni chiên trà tì già đà bà hề ni mai đát la du sa ha ma la đàn trì hạt la bà ca da sa ha ma đăng già câu la bằng xa da sa ha để lý thương yết duệ sa ha tất đà duệ sa ha na mô lô sắt trá tả ma đăng già la xà tả tất điện đô mạn đát la bả đà sa ha.
Nếu người chỉ hay tụng được được chân ngôn này, chẳng cần cúng dường liền được thành tựu. Nếu tụng chân ngôn này bảy biến thì mười sáu Dược Xoa Đại Tướng liền đến chỗ của người ấy, nhận sự sai khiến của hành giả.
Nếu người nuốn đến chỗ của bệnh nhân, trườc tiên ở trong phòng chuẩn bị tụng chân ngôn này một trăm lẻ tám biến, gia trì vào lòng bàn tay phải của mình, liền dùng bàn tay phải xoa bên môi miệng của mình rồi đến chỗ của người bệnh, dùng lưng bàn tay của mình để ở thân người bệnh, tâm tác tưởng khiến khỏi bệnh thì bệnh ấy liền khỏi.
Hoặc lấy roi, gậy dài tám ngón tay hoặc mười hai ngón tay, hoặc 1sáu ngón tay… gia trì hai mươi mốt biến đưa vào bên trong lửa, cho lửa thiêu đỏ lên xong, tùy lấy than ấy mà chẳng bị hư tổn bàn tay.
Ngay lúc muốn tụng thời trước tiên, nên đửa bàn tay vào trong chén nước thơm, lại hướng bên cái miệng, như vậy ba lần liền được pháp thành. Dùng chút nước thơm rưới vảy bốn phương, dùng để kết giới, sau đó dùng pháp ấy. chân ngôn này hay trợ thành bát nhã Ba la mật đa khiến cho tất cả chúng sanh đều phát tâm vô thượng bồ đề.
Nếu người muốn vào trong núi ngồi Thiền. Giả sử có loài trùng ác, sư tử, cọp, sói với nhóm ma quỷ ác muốn đến gây não hại thì nên tụng chân ngôn này một trăm lẻ tám biến, liền không có sự sợ hãi, các việc chướng nạn tự nhiên tiêu diệt.
Nếu người chê bai pháp với tạo năm nghịch. Nhóm người ác này chẳng thể cho. Bất dung sám hối, như người này thì đừng dạy bảo pháp này. Nếu người hay chí tâm tụng chân ngôn này thì hay diện tội của nhóm bốn nặng, năm nghịch.
Nếu nói đủ pháp bát nhã Ba la mật đa này thì có vô lượng Đàn, Ấn, Đà La Ni, pháp Môn. Nay chỉ lược nói pháp này như viên ngọc Ma Ni.
Nếu người có tâm vô thượng bồ đề, được thấy pháp này thì thành quả Bồ Đề.
Nếu người muốn được ngày ngày cúng dường tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, Chư Thiên ở mười phương. Hoặc ở trong phòng với trong Điện Phật mà cúng dường.
Phàm là nơi cúng dường, đều nên làm pháp kết giới, dùng cây Khư Đà La. Đời Dường nói là cây Tử Khương, cây gừng tía làm bốn cây cọc đều dài tám ngón tay, đều gia trì vào các cây cọc ấy một trăm lẻ tám biến rồi đóng ở bốn góc. Một lần đóng xong thì vĩnh viễn đừng nhổ lên, một cây cọc đã xong thì ba cây còn lại cũng thế.
Chính giữa Đàn ấy với ở bốn phương, đào xuyên đất làm cái lỗ đều sâu một kiệt?
Trách: Một gang tay, ở trong lỗ chôn hạt cải trắng, dùng Quân Trà Lợi Đại Tâm chân ngôn gia trì vào hạt cải trắng một trăm lẻ tám biến.
Chân Ngôn là:
Úm hộ lô hộ lô để sắt tra, để sắt tra bàn đà bàn đà ha na ha na a mật lý đế ô hồng phất.
Nếu người ngày ngày dùng nước nóng thơm tắm gội, vào nơi Đạo Tràng, tác Hộ Thân Ấn. Dùng nhóm Ấn bên dưới là trợ thành Ấn, cho nên bên dưới ghi riêng thứ tự các số.
Cam Lộ Quân Trà Lợi tịch trừ Vĩ Na Dạ Ca pháp Ấn Chân Ngôn:
Tay phải: Co ngón ngài nằm ngang trong lòng bàn tay, đem ngón giữa trái với ngón vô danh trái nắm ngón cái ấy, lại đem ngón trỏ với ngón út gắng co hướng ra bên ngoài khiến cho đầu ngón trỏ đến cạnh lóng giữa của ngón giữa, khiến cho đầu ngón út đến cạnh lóng giữa của ngón vô danh, liền duỗi cánh tay ấy hướng theo bên phải chuyển, tụng chân ngôn bảy biến.
Ngay lúc làm pháp thời tay trái: Đem ngón cái vịn lóng thên móng ngón út, đề cạnh eo, duỗi thẳng ba ngón hướng đầu ngón lên trên.
Chân Ngôn là:
Án, hổ hồng ha na, thực na, ma tha tỳ đà băng sa dạ ô tha đà da ô hồng, phất phất.
Oṃ Hūṃ hana daha matha vidhvaṃsaya ut tabdhāya ḥūṃ phaṭ phaṭ pháp Ấn Minh này đều hay tịch trừ tất cả Dược Xoa yakṣa, Vĩ Na Dạ Ca. Vināyaka, tất cả các ác thảy đều chạy tan, thành biện các việc, không có sợ hãi.
Kết Địa Giới pháp Ấn Chân Ngôn:
Trước tiên để ngón giữa phải ở khoảng giữa ngón giữa ngón cái trái, hướng lưng ló đấu ngón. Tiếp theo để ngón vô danh ở khoảng giữa ngón út trái cũng thế, ngón giữa trái hướng vào bên trong khoảng giữa ngón trỏ ngón giữa phải, hướng vào bên trong ló đầu ngón. Tiếp theo để ngón vô danh trái ở khoảng giữa ngón út phải cũng vậy, hai đầu ngón út dựng thẳng hợp đầu ngón, hai ngón cái cũng hợp đầu ngón hướng xuống dưới.
Nếu khi làm pháp thời ngón cái hợp đầu ngón trụ mặt đất, giang hai khủy cánh tay.
Chân Ngôn là:
Úm cát lợi cát lợi bạt chiết la, phước tri bàn đà bàn đà ô hồng ha.
Tụng chân ngôn bảy biến xong, dùng Ấn trụ đất thì tất cả các hàng quỷ ác thảy đều chạy tan.
Kết Tứ phương pháp Giới Ấn Chân Ngôn:
Dựa theo Địa Ấn lúc trước, chỉ sửa mở hai ngón cái cách nhau hai thốn 2/3 dm, đầu ngón hướng về thân, dựng thẳng gồng ngón tay hướng theo bên phải chuyển.
Chân Ngôn là:
Úm tát la tát la bạt chiết la ba la ca la ô hồng phát.
Tụng chân ngôn bảy biến. Tức dùng Ấn này hướng nơi bốn phương tùy theo mặt trời chuyển theo bên phải thì hết thảy Dược Xoa, Vĩ Na Dã Ca thảy đều chạy tan.
Kết Hư Không Pháp Giới Ấn Chân Ngôn. Cũng gọi là Thượng Phương kết giới: Dựa theo Địa Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón cái đều phụ dính trên cạnh ngón trỏ, liền đem Ấn này hướng bên trên đầu xoay theo bên phải ba vòng.
Chân Ngôn là:
Úm tỳ tất phổ tra, la xoa bạt chiết la bán xà la ô hồng phát.
Đem Ấn này nâng lên hướng bên trên đầu xoay theo bên phải ba vòng, tụng chân ngôn bảy biến thì tất cả hàng Phi Hành Dược Xoa, Ma, Quỷ ở hư không, trên Trời thảy đều lui tan, đều tụng Ấn Hạ chân ngôn bảy biến. Nên bày hai mươi mốt loại vật cúng dường, làm Bát Nhã Ba La Mật Đa Pháp Hội, tùy theo sức có thể làm, chỉ cần tinh diệu tốt.
Nhóm nào gọi là hai mươi mốt loại?
Một là: Nghiêm sức Đạo Tràng, an trí Tôn Tượng, lại dùng mọi loại hương là Long Não, Đinh Hương, Uất Kim, Trầm Thủy, nước nóng thơm tắm Tượng rồi để lại chỗ cũ. Bản xứ.
Hai là: Trước tiên nên làm Thủy Đàn.
Ba là: Long não, trầm thủy, hương thượng diệu… dùng xoa bôi thân tượng.
Bốn là: Các vòng hoa màu nhiệm đem choàng quấn thân Phật với trên hai vai.
Năm là: Đảnh đội mão Trời.
Sáu là: Vòng xuyến báu, chuỗi Anh Lạc trang nghiêm thân Phật.
Bảy là: Cái trướng báu.
Tám là: Thiêu đốt mọi loại hương.
Chín là: Treo phan đủ màu.
Mười là: Treo dù lọng.
Mười một là: Thắp đèn.
Mười hai là: Thức ăn uống có trăm mùi vị với quả ngon ngọt.
Mười ba là: Treo các chuông, bội nhỏ.
Mười bốn là: Treo các âm nhạc.
Mười lăm là: Các hoa đủ màu.
Mười sáu là: Cây quạt báu.
Mười bảy là: Mọi loại quần áo.
Mười tám là: Cái gương báu.
Mười chín là: Cái bình báu.
Hai mươi là: Lưới châu báu.
Hai mươi mốt là: Cây phất trắng. Dùng vật thắng diệu của nhóm như vậy, chí tâm cúng dường, hay khiến hàng Nhân Vương. Nārendra với tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay các tội mười ác, năm nghịch đều tiêu diệt, lại khiến cho sự mong cầu ở hiện tại được tùy theo ý.
Nếu chẳng thể đủ hai mươi mốt loại thì năm loại cũng được.
Nhóm nào là năm?
Một là: Nước thơm.
Hai là: Hoa tạp.
Ba là: Đốt hương.
Bốn là: Thức ăn uống, năm là thắp đèn. Đủ năm việc này, khởi đại từ bi thương xót tất cả chúng sanh, cho nên cúng dường Chư Phật sẽ được thành tựu.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Bảy - Ngạ Quỷ Sự - Phẩm Ba - Tiểu Phẩm - Chuyện Rơm Trấu Bhusa
Phật Thuyết Kinh ưu Bà Di Tịnh Hạnh Pháp Môn - Phẩm Ba - Phẩm điềm Lành
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Nhập Lăng Già - Phẩm Hai - Phẩm Thực Hành Tất Cả Pháp - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiện Giới - Phẩm Hai - Phẩm Tánh Của Hạnh Lành
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Thiện Tri Thức - Phần Một