Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười Năm - Kim Cương ô Xu Sa Ma Pháp ấn Chú Phẩm - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN MƯỜI NĂM

KIM CƯƠNG Ô XU SA MA PHÁP

ẤN CHÚ PHẨM  

TẬP MỘT  

1. Ô Xu Sa Ma Hộ Thân Pháp Ấn Chú.

Đời Đường nói rằng: Bất Tịnh Khiết Kim Cương có mười bảy Ấn, có bốn mươi hai Chú.

Hai tay hướng hai lòng bàn tay về thân, cùng cài chéo ngón giữa với ngón vô danh sao cho đầu ngón bám dính trên lòng bàn tay, nghiêng dựng ngón út cùng chạm đầu ngón, co hai ngón trỏ cùng móc nhau, bên phải đè bên trái, co hai ngón cái vịn vạch ngang lóng trên của ngón trỏ.

Chú là: Án bạt chiết la câu lỗ đà ma ha sa la ha na đà ha bả giả, tỳ đàbăng tả dạ ô xu sa ma câu lỗ đà ô hồng, phán.

Oṃ Vajra krodha mahā bala, hana daha paca vidhvaṃsaya, ucchuṣmakrodha hūṃ phaṭ.

Pháp Ấn Chú này. Nếu người muốn làm việc pháp của Hoả Đầu, trước tiên dùng Ấn này tụng Chú bảy biến Hộ Thân, sau đó hành dụng pháp của Ô Xu Sa Ma.

Ucchuṣma: Uế Tích thảy đều có ứng nghiệm. Dùng Ấn Chú này trị tất cả bệnh, tụng mười vạn biến sau đó hành dụng.

2. Ô Xu Sa Ma Thân Ấn Chú: Đem ngón vô danh, ngón út của tay phải theo sau lưng ngón vô danh trái nhập vảo khoảng giữa của ngón giữa, ngón vô danh của tay trái. Đem ngón cái phải đè trên móng của ngón vô danh với ngón út của tay phải.

Lại đem ngón cái trái đè trên móng của ngón vô danh, ngón út của tay trái, làm tướng cái vòng móc nhau. Đều dựng hai ngón trỏ với ngón giữa sao cho đều ngón trụ nhau, đưa ngón trỏ qua lại.

Chú là: Án bả chiết la câu lỗ đà ma ha bà la ha na đà ha bả giả, tỳ chỉ la tỳ đà băng tả dạ xà trí la lam bồ đà la ô xu sa ma câu lỗ đà ô hồng phán phán sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu vào Đạo Trường, lúc làm pháp thời ngày ngày cúng dường đều dùng Ấn này Hộ Thân, kết giới xong. Trở lại dùng Ấn này hoán thỉnh. Kêu gọi mời thỉnh Kim Cương. Nếu muốn lấy nghiệm, ở nơi thanh tịnh đốt An Tất Hương, bảy ngày bảy đêm tụng Chú này đủ mười vạn biến xong thì tất cả đều ứng nghiệm. Kèm dùng trị bệnh cũng được hiệu nghiệm.

Thời tiết trị bệnh. Có ba thời là: Sáng sớm, giữa trưa, chiều tối. Mỗi ngày, ba thời như vậy đều tụng một ngàn không trăm lẻ tám biến, hoặc tụng một trăm lẻ tám biến cũng được. Ngoài ba thời này ra, chẳng được phóng túng tụng. Nếu lúc trì tụng thì chẳng kể biến số, tụng càng nhiều càng tốt.

Nếu muốn thọ nhận riêng phước khác thì trong một trăm ngày chẳng được ra bên ngoài Đạo Trường nghỉ đêm: Hành dâm, phá giới. Nếu phá giới hạnh thì chúng Thần chẳng hộ giúp, chẳng trợ sức lực, cũng không có đại nghiệm.

Nếu muốn đi ra đại tiểu tiện thời đừng mặc áo sạch trên nhà cầu, lúc ăn cũng vậy. Nếu đại tiểu tiện với ăn uống xong, đều nên dùng nước nóng thơm tắm rửa sạch sẽ, lại mặc áo sạch đi vào trong đạo trường, trì tụng bản nghiệp.

Nếu muốn đối mặt, gần gũi nhìn thấy Kim Cương. Vajra. Vào lúc xin Nguyện thì mỗi đêm làm pháp hoan hỷ của Quân Trà Lợi. Kuṇḍali ắt quyết định được thấy. Ngay khi hành giả nhìn thấy Kim Cương thời đừng sinh sợ hãi. Nếu tâm sợ hãi liền khiến cho người ấy mất tâm mà bị hoang loạn. Rối loạn hoang tưởng.

Tại sao thế?

Vì người ấy nếu hay sai khiến được Kim Cương, tức hay chế phục tất cả quỷ thần. Thế nên tất cả các hàng quỷ thần nhìn thấy người ấy sắp được thành tựu đại nghiệm, liền đi đến làm cho người ấy sợ hãi, khiến cho người ấy thoái lùi hư hoại. Cho nên cần phải vững tâm, kiên cố ý chí đừng để tâm động chuyển.

Pháp cầu thấy Thân như bên dưới đã nói.

Chú này tức là điều mà tám Bộ quỷ thần thảy đều tập hội, khác miệng cùng lời đồng nói. Chẳng kể tốt xấu, hai kỳ hắc nguyệt, bạch nguyệt, ăn chay. Trai chẳng ăn chay, hoặc tịnh, bất tịnh, ăn với chẳng ăn… tất cả chỗ mong cầu thảy đều thành tựu.

Lại dùng cây có nhựa trắng. Bạch trấp mộc làm củi nhúm lửa. Lại lấy cành nhỏ của cây này chặt ra làm một ngàn không trăm lẻ tám khúc, dài ngắn tuỳ ý, riêng mỗi khúc đều cùng với hạt cải trắng đều Chú một lần rồi ném vào trong lửa thiêu đốt. Như vậy đủ số một ngàn không trăm lẻ tám biến, liền được quý thắng, bên trên thấu đến Thiên Vương. Deva rāja thảy đều vui vẻ.

Lại có pháp. Chẳng kể Tịnh và Bất Tịnh, hoặc ban ngày, hoặc ban đêm chỉ tụng Chú đủ ba mươi vạn biến tức ở tất cả nơi chốn không có chướng ngại. Vẫn dùng hạt mè. Hồ ma hoà với bơ cùng khấy đều, lấy chút phần, Chú vào một biến xong ném vào trong lửa thiêu đốt. Như vậy đầy đủ một ngàn không trăm lẻ tám lần, tức Chú pháp thành.

Lại có pháp. Ở trên đỉnh núi cao, tụng Chú này đủ mười vạn biến, tất cả nơi đi qua chỉ tác chữ Hồng Hồng. Hūṃ hūṃ, búng ngón tay thành tiếng thì không có người ác nào có thể đương đầu để gây não chướng được.

Lại có pháp. Mỗi ngày ba Thời: Sáng sớm, giữa ngày, chiều tối đều tụng một trăm lẻ tám biến. Khi nằm ngủ thời được Chư Thiên yêu giúp, tất cả mọi người cũng thường yêu nhớ.

Lại có pháp. Nếu gặp người bị tất cả quỷ thần gây bệnh, dùng cành Thạch Lựu Chú vào hai mươi mốt biến, dùng đánh vào bệnh nhân thì bệnh ấy liền khỏi.

3. Ô Xu Sa Ma kết giới Pháp Ấn: Dựa theo Đại Hộ Thân Ấn lúc trước, chỉ mở hai ngón trỏ để ở sau lưng ngón giữa, cánh khoảng ba phân một cm.

Chú là: Na mô thất chiến trà, bạt chiết la ba noã duệ ma ha dược xoa, tê na bạt đá duệ đá điệt tha Án tát la, tỳ tát la ni văn giả hề na tra na tra tát lý tỳ, tát lý già tỳ, tỳ già tỳ a xa để ca nhiếp bạt đệ na sa ha.

Tadyathā: Oṃ sara visara, devan ayā hi, naṭa naṭa, sarve sargate vigate, ajātika jīvathināṃ svāhā.

Pháp Ấn Chú này. Nếu làm việc Pháp, dùng Ấn này kết Tứ Phương Thượng Hạ Hư Không Đẳng Giới, Chú hai mươi mốt biến.

Nếu dùng Pháp này trị bệnh thì tụng Chú hai mươi mốt biến, cũng búng ngón tay hai mươi mốt lần, khử bệnh có ứng nghiệm.

Nếu người nằm ngủ, ban đêm mà tâm bị hoảng sợ. Cũng như pháp bên trên, Chú hai mươi mốt biến, búng ngón tay hai mươi mốt lần thì người nằm ngủ vĩnh viễn không có hoảng sợ.

4. Ô Xu Sa Ma Hoan Hỷ Pháp Ấn: Tay trái đem ngón cái co đầu ngón trụ ở vạch thứ ba của ngón vô danh, đem bốn ngón nắm quyền.

Chú là: Án nhiếp bạt la nhiếp bạt la thừa già ma dạ thừa già ma dạ ca la ca la bà la bà la ha la ha la sa la sa la bát la bát la xã la xã la mạt la mạt la sa la sa la sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu làm pháp Hoả Đầu Kim Cương khi dùng tụng Chú thời Hộ Thân, kết giới, thỉnh gọi Hoả Đầu Kim Cương an trí. Trước tiên tác Ấn này, tụng Chú liền được tất cả vui vẻ.

Nếu có người bị bệnh nhọt ác, dùng Ấn này xoa lên trên nhọt, tụng Chú thì nhọt ấy liền hết.

Trì Ấn Chú này thì tất nơi chốn đi qua, chẳng ai có thể gây chướng nạn, tất cả mọi người nhìn thấy đều vui vẻ.

Nếu ăn nhằm thuốc độc thì nên tác Ấn này nhiễu quanh trên đầu của thân mình, tụng Chú, liền khỏi.

5. Ô Xu Sa Ma Cúng Dường Pháp Ấn: Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ vịn trên bờ móng ngón giữa.

Chú là: Án bạt chiết la, câu lỗ đà ma ha bà la án nhập tỳ, nhập tỳ ma ha nhập tỳ chủ la chủ la xí la xí la sa la sa la ha la ha la đà ha đà ha sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Muốn làm việc pháp, thỉnh gọi Hoả Đầu Kim Cương an trí, nên tác Ấn này, tụng Chú cúng dường, liền được mọi loại lợi ích, có ứng nghiệm.

6. Ô Xu Sa Ma Trị Quỷ Bệnh Ấn Chú.

Một tên gọi là Sát Quỷ Ấn Chú: Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa ngón trỏ ngón giữa của tay phải hướng vào bên trong đè đầu ngón trỏ ngón giữa của tay trái.

Chú là:

Án bạt chiết la, câu lỗ đà ma ha bà la la đát na, tỳ bổ sử đa xa lợi la dạ sân đà sân đà ô hồng phất sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu Chú Sư muốn trị bệnh, đuổi đi thời trước tiên đem ngón vô danh. Ngón cái của tay phải lấy nhúm tro sạch, Chú vào bảy biến xong, chấm trên đỉnh đầu, tam tinh, cổ họng, bắp tay trái, bắp tay phải với chấm bên dưới trái tim của mình dùng Hộ Thân để khử và trị bệnh.

Sau đó ở trên thân của người bệnh ấy, y như pháp lúc trước cho làm hộ thân ắt quỷ gây bệnh chẳng được đến gần người bệnh, cũng chẳng được vào của ngõ của nhà ấy.

7. Ô Xu Sa Ma Bạt Chiết La Pháp Ấn Chú: Dựa theo Thân Ấn lúc trước, chỉ sửa hai ngón trỏ đều co hướng vào trong lòng bàn tay, rũ xuống dưới nhập đầu ngón.

Chú là:

Án bạt chiết la, câu lỗ đà ma ha bà la nễ la bà tát, na gia bát la thiệp phiệt lý đa ma câu tra gia thiệp phiệt lý đa nễ đa la dạ để lý bổ la gia già la tỳ đà băng sa dạ ca la dạ đá ba đá ba bát la bát la thiệp phiệt la, thiệp phiệt la ô ca mục khư phổ tra, phổ tra sa la sa la tỳ sa la, tỳ sa la ô để sắt tra, ô để sắt tra bà già tỳ ô xu sa ma câu lỗ đà a mô ca tả: Xưng tên người khác thiệp phiệt lý noa cật liễu hư noa sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu muốn trừ bệnh thì có thể tác Ấn này, ấn trên người bệnh ấy, luôn luôn tụng Chú, mỗi một âm thanh liên tục có thể mãn một ngàn biến thì bệnh liền hết.

Lại Chú vào tro thiêu người chết một trăm lẻ tám biến, liền rải ở dưới cửa nhà người ác. Người đó đạp vào liền bị bệnh nóng sốt. Nếu muốn giải trừ, lấy đường cát đen, Chú vào hai mươi mốt biến, viết tên người đó rồi thiêu đốt, liền được khỏi bệnh.

Lại có pháp. Muốn vào cung điện của A Tu La, nên tụng Chú này hai mươi vạn biến liền có thể được vào.

Lại có pháp. Chú vào bơ, sữa của con bò rồi dùng lửa thiêu đốt kèm viết tên người bệnh thiêu đốt trong lửa thì bệnh ấy liền khỏi.

Lại có pháp. Lấy thuốc độc hòa chung với máu người, một lần đọc Chú thì một lần thiêu đốt cho đến một trăm lẻ tám lần thì tất cả quỷ đều bị chết.

Lại lấy lá Khổ Đông. Lá Sầu Đâu, một lần đọc Chú thì một lần thiêu đốt cho đến 108 lần thì tất cả bệnh quỷ đều được trừ hết.

8. Ô Xu Sa Ma Trịch Pháp Ấn Chú: Dựa theo Thân Ấn lúc trước chỉ co lóng giữa của hai ngón trỏ cùng hướng rũ đầu ngón.

Chú là:

Án bạt chiết la câu lỗ đà ma ha bà l, bát la ma đà lỗ na ma ca la mục khư đa tra đa tra tỳ ma tỳ ma để dạ a già trà, a già tra ha la ha la la la la la đa ba đa ba đa bả dạ, đá bả dạ sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu muốn trị bệnh thì Chú Sư có thể tác Ấn này tụng Chú. Ở trong nhà người bệnh, Chú vào hạt cải trắng hai mươi mốt biến rồi rải chung quanh làm kết giới. Sau đó làm Thủy Đàn. Chính giữa Đàn để một cái chậu chứa đầy ngũ cốc.

Ngũ cốc gồm năm thứ: Gạo tẻ, đại mạch, thanh khoa mạch, tiểu đậu, đạo cốc. Loại lúa trồng ở nơi có nhiều nước đều tính toán để sau đó dùng. Tính số mâm thức ăn, để mười sáu cái chén đèn. Tiếp kêu người bệnh ngồi ở bên ngoài Đàn.

Chính giữa Đàn đó đặt một lò lửa. Chú Sư tác Ấn, lấy hạt cải trắng rải quanh một vòng trên đầu người bệnh, một lần Chú thì thiêu đốt một lần cho đến hai mươi mốt lần.

Sau đó đem một bồn nước đặt trên Đàn, lấy hạt cải trắng đã đốt với tro kèm một chút thức ăn uống hòa lẫn với nhau trong bồn nước rồi đổ vào trong vật đựng Ngũ Cốc trên Đàn. Liền đem vật đựng ấy ra ngoài cho quỷ thần ăn hết.

Miệng nói: Xin cho người này hết bệnh. Sau đó Phát Khiển thì bệnh ấy liền khỏi.

9. Ô Xu Sa Ma Quyến Sách Pháp Ấn Chú: Dựa theo Thân Ấn lúc trước chỉ sửa ngón trỏ gác sau lưng ngón giữa sao cho đầu ngón dính nhau.

Chú là:

Án a nễ ni ma nễ ni cật nễ ni hư noa đổ phạm sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu muốn trừ bệnh mà biết quỷ thần gây bệnh chẳng chịu giáng phục thì có thể tác pháp này tụng Chú để cột trói sẽ khiến cho chúng bỏ chạy trốn xa. Sau đó kết giới tác pháp sự ắt quỷ thần gây bệnh chẳng dám vào nữa.

10. Ô Xu Sa Ma Luân Pháp Ấn Chú: Đem hai ngón trỏ, hai ngón vô danh hướng vào bên trong cài chéo nhau. Dựng thẳng hai ngón giữa dính đầu ngón. Duỗi ngón cái, ngón út sao cho dính đầu ngón, mở cổ tay.

Chú là: Án bạt chiết la câu lỗ đà ma ha bà la thiệp bà đê băng yết lễ bát la sa la dạ bát la bà la sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu người bị bệnh lạnh, Chú Sư dùng tay cầm cỏ đốt lửa, trên lửa rải bột gạo, pháp dùng đủ như Quân Trà Lợi Pháp. Lại đem lửa này đi quanh bốn bên căn nhà người bệnh, luôn luôn tụng Chú làm kết giới thì bệnh ấy liền khỏi.

11. Ô Xu Sa Ma Đại Thân Phủ.

Cái búa Pháp Ấn Chú: Đứng thẳng trên mặt đất, co đầu gối trái, đưa tay trái nắm ngón chân cái, chống khuỷu tay ngay trên đầu gối, an trí cho thân đứng ngay thẳng. Tay phải tác Phủ Ấn trong Ấn nắm cái búa, ngón cái để trên cán búa, co khuỷu tay đặt Ấn cách vú năm thốn 5/3 dm. Nếu không có búa thì tác Phủ Ấn cũng được.

Chú là: Án bạt chiết la câu lỗ đà ma ha bà la lê bà du ma ha mạn lê gia bà la bạt la ca la ma bà la bà la bát la sa la dạ sa ha.

Pháp Ấn Chú này. Nếu có người bị bệnh đau nhức do thời khí mùa hè, quỷ gây đau đớn, đau lưng, đau bắp tay thì có thể tác Ấn này, tụng Chú rồi đánh lên chỗ đau liền khỏi.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần