Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai - Pháp Hội Vô Biên Trang Nghiêm - Phẩm Thứ Nhất - Vô Thượng đà La Ni - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ HAI
PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM
PHẨM THỨ NHẤT
VÔ THƯỢNG ĐÀ LA NI
PHẦN HAI
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tam giới do tưởng và tác ý sanh ra, nên gọi rằng tam giới hư vọng. Tưởng và tác ý cũng chẳng phải chân thật. Tưởng đây tức là chấp trước sắc. Bao nhiêu tác ý đều tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức.
bổn tánh của các pháp cũng chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, nhẫn đến Phi Tưởng cũng chẳng phải tác ý. Tưởng và tác ý bổn tánh đều không. Những ngôn thuyết cũng đều hư vọng, chỉ nhờ ngôn thuyết để làm cho tánh tịch tịnh.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Bổn tánh của các pháp vì là giả danh, nên chỗ nói ra cũng đều bình đẳng.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Thật đế trong pháp này, Chư Bồ Tát cần phải rõ biết. Nghĩa là Chư Phật Như Lai vì đã dứt rời tất cả kiết sử, nên những điều diễn thuyết ra trọn chẳng luống hư. Nơi đây các ông phải khéo suy nghĩ, chớ có quan niệm chấp trước.
Đối với tất cả pháp chớ phân biệt, chớ hí luận. Rõ tất cả pháp không có tự tánh, sanh lòng từ bi đối với chúng sanh, tư duy ngộ nhập pháp môn như vậy, khai thị diễn thuyết để lợi ích tất cả.
Pháp Môn này thế nào?
Nghĩa là thấu rõ vô minh các pháp hữu vi, tỏ ngộ trí, kiến v.v... các pháp vô vi. Phải chứng nhập trí thanh tịnh không hí luận với tất cả pháp hữu vi, pháp vô vi.
Chẳng phải số lượng mà vào số lượng, mà trụ số lượng, vì tùy thuận pháp chẳng phải số như vậy nên chứng nhập pháp môn vô vi thanh tịnh, chứng đặng trí huệ quang minh chiếu khắp, nhiếp thọ các pháp làm cho chẳng mất chẳng hoại. Có thể dùng giác huệ phương tiện thiện xảo rộng vì chúng sanh diễn thuyết các pháp.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là Chư Bồ Tát chứng nhập môn Đà La Ni. Do môn này, mà sanh ra giác huệ sai biệt rộng lớn, và có thể phát khởi chí thiện xảo diễn thuyết những pháp nghĩa.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong đây gì là môn Đà La Ni?
Bậc Bồ Tát này đối với các pháp có thể được tổng trì phương tiện thiện xảo. Bồ Tát này an trụ nơi chí thiện xảo thanh tịnh mà thật hành biện tài thuyết pháp. Do giác huệ nghĩa vô ngại mà quán sát bổn tánh tự tánh của các pháp.
Nhưng tất cả pháp tự tánh vốn vô trụ, vô danh, vô tướng, không chỗ kiến lập, chẳng thể tuyên thị, chỉ dùng ngôn từ của thế tục để diễn thuyết.
Tất cả pháp, bổn tánh tự tánh đều bất khả thuyết, không đến không đi, không có văn tự, văn tự vốn thanh tịnh không có công dụng.
Vì bổn tánh của tất cả pháp đồng như hư không, không tạo tác, không sanh khởi, vô tướng thanh tịnh. Dùng hư không để khai thị diễn thuyết, thời các pháp môn này là không có pháp môn, vì pháp môn thanh tịnh, rốt ráo không nhiễm cũng chẳng theo nơi nhiễm.
Vì các pháp rốt ráo chẳng sanh khởi, tự tánh của pháp cũng chẳng sanh khởi. Do đây nên biết rằng tất cả pháp nói ra trong ba đời, tự tánh là vô tánh, nhưng cũng chẳng nên chấp các pháp là vô tánh. Đây là môn Đà La Ni vô sở trước của Chư Bồ Tát, vì pháp môn của Chư Bồ Tát đều thanh tịnh.
Khai thị diễn thuyết tất cả pháp có hình tướng như vậy, hình tướng đó chính là chẳng phải hình tướng, chẳng tạo tác, chẳng hư hoại, chẳng tham ái, chẳng sân hận.
Do đây nên biết môn hình tướng này là chẳng phải môn. Vì môn thanh tịnh nên được vào nơi pháp môn thanh tịnh không hình tướng. Vì muốn rõ biết môn hình tướng này là vô sở hữu. Chẳng dùng nghĩa có mà tuyên thuyết như vậy, vì vô sở tác nên vào nơi pháp môn không hình tướng.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn không hình tướng đã nói như vậy là vì Đà La Ni thanh tịnh mà nói.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp môn đã nói đó dường như hư không, tất cả pháp nương nơi hư không mà có sanh diệt. pháp sanh diệt kia tánh đều bình đẳng, không có sanh diệt, không chỗ nhiếp thọ. Với tất cả pháp phải biết như vậy.
Tất cả pháp cũng chẳng phải nhiếp thọ, chẳng phải không nhiếp thọ, chẳng phải đồng, chẳng phải không đồng, nhẫn đến không có chút pháp gì mà có thể được. Do đây có thể rõ được môn hình tướng này, vì được môn vô tướng thanh tịnh mà khai thị diễn nói.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nói rằng vô tướng đó chính là không thân, không thân thi thiết, không danh, không cú, cũng không thị hiện. Nơi giáo nghĩa này phải nên rõ biết môn không hình tướng kia đồng với hư không. Nói rằng hư không, cũng chẳng có hư không và thị thuyết hư không. Đây là pháp môn vô minh tùy thuận minh trí lực.
Bồ Tát có thể chứng nhập lý thú phương tiện của môn Đà La Ni. Do chứng nhập nên không có tránh luận cũng không quên mất. Liền chứng nhập môn Đà La Ni vô đoạn bí mật ngữ ngôn. Như rồng Vô Nhiệt Não làm trận mưa to không ngớt hột.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nói Đà La Ni trên đây là cú nghĩa gì?
Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát nói: Bạch Thế Tôn! Đà La Ni là giả danh phương tiện tùy thuận các pháp bí mật. Là nghiệp dụng liền ghi nhớ khắp các pháp. Là những câu ngữ ngôn thuyết pháp. Do trí lực được vào số Đà La Ni như vậy. Do thiện giác hưệ cần phải thọ trì công lực Bồ Đề vô lượng vô biên.
Bạch Thế Tôn, như chỗ tôi hiểu, phương tiện diễn thuyết trí vô biên này là vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sanh nên khai thị lưu bố làm cho chánh pháp chẳng đoạn tuyệt.
Bạch Thế Tôn! Đà La Ni này là đại hư không, là đại phương quảng. Do nghĩa đây nên có thể tuyên thuyết rộng khắp. Do tuyên thuyết bình đẳng có thể nhiếp thọ nên gọi là tùy thuận giáo pháp thiện xảo khai thị lưu bố rộng lớn.
Vì văn tự sai biệt viên mãn mà được thành tựu biện tài vô ngại. Do quan sát nghĩa thiện xảo ngôn thuyết nên được nghĩa vô ngại biện tài. Vì quyết định các pháp thiện xảo khai thị nên được viên mãn pháp vô ngại biện tài.
Thương xót chúng sanh dùng tâm đại từ bi nên có thể nhiếp thọ. Do nhiếp thọ, nên tuần tự điều phục làm cho được thanh tịnh, không hí luận, có thể diễn thuyết pháp xả bình đẳng.
Bạch Thế Tôn! Lúc diễn nói pháp môn phương tiện bí mật Đà La Ni này, vô lượng vô biên nghĩa thiện xảo ra từ kim khẩu của Phật.
Phật bảo Vô Biên Trang Nghiêm Bồ Tát: Nói pháp môn chính là từ ngữ nhất thiết trí môn của Như Lai. Trong môn này, do ngữ ngôn mà diễn thuyết được tất cả pháp. Như Lai an trụ nơi tự nhiên trí vô biên thanh tịnh rốt ráo thanh tịnh, từ nơi vô sở trụ, vô sở lập mà diễn ra pháp môn rộng lớn rất sâu.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai từng nói tất cả pháp đều là Phật pháp. Vì đối với các pháp có thể khéo rõ biết nên gọi là Phật pháp. Bổn tánh của các pháp đồng với Phật pháp nên các pháp đều là Phật pháp. Do có thể rõ biết các pháp và phi pháp nên nói rằng có thể rõ biết tất cả pháp.
Người có thể rõ biết các pháp, thì có thể rõ biết môn Đà La Ni. Môn Đà La Ni này có thể vào khắp tất cả pháp, nghĩa là có thể nói năng diễn thuyết đàm luận. Tất cả những sự nói năng diễn thuyết đàm luận đều do nơi văn tự mà tuyên thị.
Trong văn tự này, đầu là chữ a, rốt sau là chữ hà. Dường như lúc nhập thai, thọ thai, trụ thai, thời lấy mẹ làm trước. Lại như chủng tử và nuôi lớn thời dùng cha làm trước.
Tất cả văn tự hòa hiệp sai biệt dùng mẫu tự như vậy làm trước. Phát sanh văn tự thời trước là chữ a, rốt sau là chữ hà, những văn tự khác ở chặng giữa, tùy theo sự tương ưng, các văn tự hòa hiệp có ra.
Đây chính là có thể vào môn ngữ ngôn Đà La Ni. Lại phải rõ biết tất cả những hành pháp thảy đều hoại diệt. Như văn tự kia, đã viết học thành rồi liền sẽ trừ diệt. Tất cả nghiệp dụng lập ra đều sẽ hoại diệt.
Như những hành pháp kia vì hòa hiệp mà sanh, nó chẳng hòa hiệp thời hoại diệt. Hai thứ tương ưng hòa hiệp như vậy lập thành tất cả ái kiến trong ba cõi, cũng do hai thứ hòa hiệp như vậy lập thành tất cả pháp hữu vi.
Quan sát như vậy, lần lần có thể thành tựu pháp môn vô tác, do đây có thể diễn thuyết môn Đà La Ni sanh diệt, làm cho Chư Bồ Tát mau được viên mãn phương tiện thiện xảo.
Như mẫu tự, trước là chữ A, sau là chữ Hà. Được như vậy rồi, nên dùng lời nói diễn thuyết đàm luận, khéo vào tất cả ngôn từ bí mật, lại phải rõ biết pháp vô ngại để khai thị tuyên thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như mẫu tự, chữ A làm đầu, bao nhiêu văn tự theo đó lập thành, do tác ý mà có biên chép. Sau chữ Hà, không còn văn tự nào có thể kiến lập được nữa. Do hai thứ tác ý này có thể sanh tất cả hành pháp hữu vi.
Hai thứ phân biệt đó đều không chân thật, vì nơi chân thật không có bổn tánh tự tánh của văn tự, cũng không có phân biệt và chẳng phân biệt, mà trong đó cũng không có chút phần gì làm ra.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả các pháp do trí nhận biết. Trí này đều từ nơi văn tự mà được sanh khởi. Vì văn tự này chẳng thành tựu, nên trí kia cũng lại không hình tướng có thể được. Vì nơi chân thật vốn không có hình tướng. Do vào nơi không hình tướng như vậy nên rời bỏ tất cả sự nghiệp tạo tác. Vì vô tác nên rời bỏ tất cả sự hữu vi.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là pháp môn thanh tịnh thiện xảo Đà La Ni. Nếu Chư Bồ Tát lúc học pháp môn này, thời có thể phát khởi tất cả sự nghiệp vô ngại, vì chúng sanh tuyên thuyết chánh pháp không thiếu bớt, chẳng trụ nơi chấp trước, và có thể xa lìa những tưởng cùng tác ý, vì đã có thể vào nơi pháp vô ngại trí, chứng vô biên trí.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Chư Bồ Tát khi đã khắp dùng tất cả danh tự, mà rõ biết tất cả pháp chỉ có ngôn thuyết mà không chân thật. Biết như vậy rồi Bồ Tát cần phải vào phương tiện Đà La Ni Môn.
Thế nào là nên vào môn phương tiện Đà La Ni?
Rõ biết tất cả danh ngôn vốn không chỗ trụ, nên chẳng trụ nơi các pháp, chẳng trụ trong ngoài chặng giữa, tất cả chỗ đều là bất khả đắc. Chỉ nương ngôn thuyết mà lập ra danh tự. Với danh tự lập ra liền rõ biết như thật, là như thật.
Do như thật này cần phải rõ biết tất cả pháp vốn không danh tự, không ngôn thuyết, đây là chỗ trí lực vô sở úy của Chư Phật. Với tất cả pháp, Bồ Tát nên dùng pháp môn này để khai thị diễn thuyết.
Như Lai nói tất cả pháp chẳng phải một tánh, chẳng phải khác tánh, vì các pháp không có tánh một tánh khác. Tất cả pháp này chẳng phải sanh chẳng phải có. Những pháp tuyên thị như vậy cũng không.
Pháp đã không thời chính nó là vô tướng. Đã vô tướng thời không nguyện cầu. Nếu các pháp đã là không, là vô tướng, là vô nguyện, thời là bất khả tri, bất khả biến tri.
Do đây chẳng nên nói các pháp là hữu là vô. Nói hữu nói vô chỉ là ngôn thuyết, trong đó chẳng nên chấp trước. Vì Phật thường nói nếu người chẳng chấp trước tất cả pháp thời là chân thật thắng nghĩa. Nếu người có chấp trước, thì với pháp nào cũng đều sanh chấp trước. Chấp trước như vậy đều là pháp bại hoại, là không, chỉ có hư vọng, phân biệt, hí luận.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông cần phải quan sát diễn thuyết các pháp, nhưng những pháp đó thật ra không thị không thuyết, há lại ở trong đó mà có người năng thuyết vì người khác mà diễn thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Pháp thanh tịnh đây do Như Lai diễn bày ra. Người nào có thể rõ biết được thời đáng gọi là rất hi hữu.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay các ông ở trước ta được nghe pháp như vậy, dầu đa số có thể khéo rõ biết sanh thắng giải, trụ nơi tín tâm thanh tịnh, nhưng chúng sanh đời sau đối với pháp này ít người hiểu biết.
Chỉ trừ những người hiện nay gần gũi bên Phật phát hoằng thệ: Nguyện đời vị lai đem sự an lạc lợi ích cho chúng sanh, mà sẽ thọ trì giáo pháp của Như Lai. Những người hiện tiền thừa sự cúng dường Như Lai tin sâu hiểu chắc sẽ có thể chứng được môn Đà La Ni này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Do ngày trước cúng dường Chư Phật, lại được tin hiểu giáo pháp thậm thâm, nên Chư Bồ Tát nguyện cầu Đại Thừa hướng đến công hạnh sâu rộng.
Hàng Thanh Văn thừa nhàm lìa Ba Cõi nên siêng năng tu hành giáo pháp thậm thâm, những người này chưa từng được nghe giáo pháp thâm diệu này.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đức Như Lai vì muốn lợi ích cho hạng hữu tình này, khiến họ chứng chủng trí rộng lớn vô lượng, nên lại nói giáo pháp thậm thâm. Giáo pháp này chẳng phải kẻ ngu phu nhiều chấp trước chẳng mong cầu diệu pháp mà có thể hiểu, có thể làm được. Diệu pháp này là chỗ nương dựa của những người tu hành đúng lý đầy đủ căn lành, biết sợ tội mà cầu giải thoát.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật vì các ông và tất cả đại chúng luôn thuyết pháp chẳng mỏi nhàm. Do xưa kia lúc Phật còn thật hành đạo Bồ Tát, trong vô lượng kiếp tinh tấn tu học Diệu Pháp thậm thâm này.
Đã tu học rồi bèn hồi hướng tất cả chúng sanh: Làm thế nào sẽ vì các loài hữu tình mà chuyển được pháp luân vô thượng và vì các hữu tình thị hiện được trí huệ vô thượng khiến cho Phật chủng chẳng dứt?
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là do nguyện lực thuở xưa của Đức Như Lai vì muốn Phật trủng trẳng dứt và dùng oai lực gia hộ môn Đà La Ni này, khai thị diễn thuyết pháp thậm thâm đây cho được lưu bố rộng khắp, khiến chúng sanh sẽ được ngộ nhập trong Phật pháp.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay các ông nếu muốn học theo Phật, thời có chúng sanh nào mong cầu chánh pháp, các ông phải khai thị diễn thuyết chớ sanh lòng nhàm mỏi.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Chư Bồ Tát ở trong đại chúng, đem pháp của mình đã được nghe mà diễn thuyết khai thị. Do đây sẽ được gần Phật trí, mau chứng được môn Đà La Ni. Vì chứng Đà La Ni nên dùng công lực ít mà có thể thọ trì pháp môn thanh tịnh sáng suốt.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh. Bổn tánh của các pháp nếu đã là chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, chẳng phải hòa hiệp, chẳng phải không hòa hiệp, thời trong các pháp vẫn không có pháp.
Nếu pháp đã không có thì không chỗ nào có thể thị thuyết được, chỉ trừ khi để dứt tập chân, vì dứt tập chân nên được xa lìa, vì được xa lìa nên được tịch diệt.
Như Lai vì muốn chúng sanh hiểu rõ nên tuyên thuyết. Tất cả pháp bổn tánh tự tánh vốn là vô chân, thì là vô chân dứt. Vì vô nhân dứt nên không lìa không diệt.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Ông xem chỗ thuyết pháp của Phật thanh tịnh như vậy. Nếu người dùng pháp để quan sát Như Lai, người đó nơi Như Lai thấy chẳng thanh tịnh. Vì Như Lai chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Như Lai còn chẳng an trụ chút pháp gì huống là phi pháp.
Như Lai vượt khỏi các pháp biểu thị, không thể tuyên thuyết, vì tất cả ngữ ngôn đều thanh tịnh. Do đây nên Như Lai rất là rộng sâu vô lượng. Như Lai chẳng phải sắc biểu thị, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức biểu thị, cũng chẳng phải sắc diệt tận giải thoát, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức diệt tận giải thoát.
Do đây nên Như Lai tuyệt những pháp biểu thị cùng sắc, thọ v.v... với các pháp chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng, nhưng ở nơi tất cả pháp hữu vi vô vi đều có thể khắp giải thoát, chẳng phân biệt, không hí luận.
Như Lai chẳng tương ưng với sự chấp trước nơi sắc, cũng chẳng tương ưng với sự chấp trước nơi thọ, tưởng, hành, thức, đã dứt hẳn tất cả cội gốc chấp trước, và cũng xa lìa cội gốc của các pháp.
Nghĩa là Như Lai không hí luận, chẳng nhập chẳng xuất, vượt khỏi các dòng, chẳng trụ cảnh giới Phật Vô Thượng, cũng chẳng phải không trụ. Nên nói rằng Như Lai chẳng trụ nơi chút pháp gì, chẳng lấy chẳng bỏ.
Lúc thuyết pháp cũng phải diễn thuyết như đã nói về vấn đề Như Lai. Vì Như Lai chẳng tương ưng nên pháp của Như Lai cũng chẳng tương ưng.
Như pháp của Như Lai, tất cả pháp cũng vậy. Cứ nơi lý như thật thời các pháp đều như. Do đây nên Phật nói tất cả pháp đều là chân như.
Tất cả pháp chân như cùng Phật chân như không sai không khác, chẳng phải nhất chẳng phải dị. Vì Như Lai an trụ nơi pháp vô phân biệt chẳng phải là biến kế chấp.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Như Lai thuyết pháp trọn chẳng siêu quá tất cả pháp, vì không có chút pháp nào có thể siêu quá.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Lúc Đức Như Lai chứng được Vô Thượng Bồ Đề, nhưng thật ra lúc đó không có pháp gì được, vì tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng phân biệt, chẳng thấy có pháp cùng phi pháp, cũng không tác ý, nơi pháp tánh thanh tịnh chẳng an trụ, chẳng kiến lập. Lúc giản trạch rõ biết các pháp như vậy, cũng không có người rõ biết và giản trạch.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Văn cú đệ nhất nghĩa đã diễn thuyết đây là văn cú chẳng phải văn cú của Như Lai, vì văn cú vốn thanh tịnh. Do nghĩa này nên Chư Bồ Tát chứng được trí tất cả văn cú thanh tịnh. Do đây có thể nhập môn Đà La Ni lý nghĩa vô biên, nhưng cũng không chút pháp gì có thể chứng nhập, vì không có khứ lai.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Văn cú đã nói đó, vốn không văn cú có thể được, vì văn cú vốn chẳng phải văn cú. Đối với tất cả văn cú cần phải rõ biết như vậy. Những văn cú như vậy là nhàm lìa văn cú, đã nhàm lìa văn cú thì là văn cú hư vọng.
Nếu văn cú hư vọng thời là nhàm lìa văn cú. Tất cả văn cú đó là văn cú diệt tận, nếu văn cú diệt tận thời là văn cú chân như. Nếu văn cú chân như thời là văn cú rốt ráo.
Nếu văn cú rốt ráo thời là văn cú tận diệt. Nếu văn cú tận diệt thời là văn cú Niết Bàn. Nếu văn cú Niết Bàn thời chẳng phải thế tục, không văn cú đặt ra cũng không thị thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nói một câu được bình đẳng vào trong tất cả pháp.
Thế nào là một câu?
Chính là câu yểm ly. Trong yểm ly vốn không có câu. Tất cả câu đây còn là yểm ly, thời câu cũng chẳng phải câu vì câu thanh tịnh. Nếu câu thanh tịnh, thời Niết Bàn thanh tịnh.
Nếu Niết Bàn thanh tịnh thời câu thanh tịnh. Những văn cú như vậy đều bất khả thuyết. Dầu dùng lời nói để tuyên thị văn cú, nhưng lời nói đó tìm khắp mười phương vẫn không tìm được ai vì ai mà nói.
Nên tất cả ngôn thuyết đều không. Ngôn thuyết đã không thời không có nghĩa. Chẳng nên ở trong đó phân biệt hí luận đặt ra những cú nghĩa như vậy.
Tất cả đều là cú nghĩa vô phân biệt, là cú nghĩa không hí luận. Do đây nên người tu quán hạnh, lúc tìm cầu quan sát tất cả cú nghĩa, phải biết đều là tịch diệt Niết Bàn.
Những văn cú như vậy chẳng khác với Niết Bàn, cũng là bất khả thuyết. Nhưng chẳng phải là không khác vì ngôn thuyết và văn cú đều là hư vọng.
Vì văn cú thanh tịnh nên phương tiện tuyên thuyết để biểu thị các cú nghĩa, chẳng phải biểu thị chân thật. Nếu là chẳng phải biểu thị cũng chẳng phải không biểu thị, thì là ở trung đạo. Nếu ở trung đạo thì là vô phân biệt, vì trong đây đã dứt phân biệt.
Lúc chứng nhập pháp tánh bình đẳng đây, không còn có chỗ nào thật hành chút ít ác hạnh, vì là vô sở đắc. Chư Phật nói người tu Bồ Tát thừa, lúc không có chút pháp gì để có thể thật hành, đây chính là thật hành Bồ Tát hạnh, vì an trụ môn Đà La Ni thanh tịnh Vô Thượng.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nay Phật sẽ nói câu Đà La Ni. Do câu này mà Chư Bồ Tát được Đà La Ni có thể khai thị vô biên pháp tạng. Chư Bồ Tát này trụ bậc vô tránh, vì có thể phá trừ những ngoại luận, vì rất tịch tịnh, vì thuyết pháp rộng.
Đây là câu Đà La Ni của Pháp Môn đó:
Đát điệt tha nhã duệ vi nhã duệ ô kế ô ca phiệt để a lộ kế a lộ ca phiệt để bát ra bệ bát ra bà phiệt để na rị thiết nãnh nễ na rị thiết đàm phiệt để yết thế yết tha phiệt để thú thát nãnh bệ thú thát nãnh bát rị thú thát nãnh cật rị gia cật rị gia phiệt để ôn đát ra ni san đát ra ni ma ha tỳ xã duệ ma ha tỳ xã gia phiệt để a nộ san địa a bát ra để san địa Du Già ma nại đà tất địa tất đà yết thê tất đà yết tha phiệt để ma để ma để bát ra bệ ôn đát rị ôn đát ra phiệt để nhĩ ma rị di ma ra nộ tán địa tát lê tát ra phiệt để tát ra nộ già để ta mĩnh ta ma lam bà nhĩ già để yết để a nễ a già để a bát ra để nễ phiệt để di thế sái di thế sái phiệt để a ma hê nễ nễ ma hê nễ bát ra ma hê nễ ô hà ô đát ra nãnh ma ra bát na duệ a thế sát a nộ ba thế sát a nộ già mê a bát ra để già mê a già đế a na già đế già để nhĩ thú đà nễ bát rị thú đệ cương kiệt sai chế na nễ dạ đế ma để bát ra tị đế ma để tỳ thú đà nễ tam mạn đa nộ yết đế mạn đa bát rị phược lê tam mạn đa tỳ thú đà nễ a nộ ba ngật ra hứ a nễ ngật ra hứ đế hứ ra na thê a ra tha tỳ thú địa bát ra mĩnh hê đô nễ địa san ninh bát ra tị để bát ra tị đa phiệt để tỳ nễ thiết giả duệ tị nễ thuyết giả gia nộ yết đế a nan đa ra thê a nan đa bí ngật ra hế ma xã tỳ thú địa a nộ kiệt ra hế bát ra kiệt ra hà tỳ thú đả nễ a địa da đa ma tỳ kiệt đế ma hứ ra đà tỳ thú đà nễ bí địa da nộ kiệt để bí địa da nộ tán địa bát rị thú đà nễ.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là câu Đà La Ni! Chư Bồ Tát do câu này có thể nhớ rõ các pháp tạng của vô lượng Như Lai, cũng có thể khai thị diễn thuyết làm cho chúng sanh trụ bậc vô tránh, lại có thể được phương tiện vào tất cả nghĩa lý, có thể rõ biết trí sai biệt rộng lớn vô lượng, tất cả hạnh nguyện đều được viên mãn. Cũng làm cho Chư Bồ Tát được phương tiện thiện xảo Đà La Ni.
Do được Đà La Ni này sẽ có thể rõ biết nghĩa lý bí mật của các pháp: Nơi nhãn căn thấy sắc Đà La Ni, nhẫn đến ý căn biết pháp Đà La Ni.
Môn Đà La Ni sáu căn thấy biết sáu trần như thế nào?
Chư Bồ Tát do nhãn căn thấy sắc trần rồi, vì trí lực và niệm lực biết rõ sắc là vô thường sanh diệt chẳng dừng, do đây chẳng chấp ngã và chẳng phải ngã, chẳng phan duyên nơi sắc nên nhãn căn thanh tịnh, không hí luận, không vọng niệm, không huân tập, không hệ phược nơi nhãn căn và nhãn thức, không phân biệt đối với các pháp.
Vì thấy biết thanh tịnh như thật nên rõ biết các pháp như huyễn, được trí rộng lớn không đồng với thế gian!
Nói lược như vậy, nhẫn đến Chư Bồ Tát dùng ý căn rõ biết pháp trần rồi, do trí lực và niệm lực biết rõ các pháp là vô thường sanh diệt chẳng dừng, chẳng chấp ngã và chẳng phải ngã, ý căn thanh tịnh chẳng chấp lấy pháp trần.
Chẳng phân biệt, chẳng hí luận, chẳng vọng niệm, chẳng huân tập, chẳng hệ phược nơi ý thức và pháp trần, vì ý căn thanh tịnh như thật rõ biết nên rõ biết các pháp như huyễn được phước huệ thù thắng chẳng đồng với thế gian.
Bồ Tát này lại có thể đối với tất cả pháp không có kiến chấp là vô chân, cũng chẳng ở nơi chân thấy có duyên, chẳng ở nơi duyên thấy có chân, rõ biết tất cả pháp đều chẳng tương ưng nhau mà chứng nhập bổn tánh thanh tịnh tịch diệt, chẳng sanh chẳng khởi, chẳng lưu chuyển, cũng chẳng phải dùng ngôn thuyết mà nói đến được.
Tất cả pháp nghĩa chẳng phải đồng phận, chẳng phải tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Vì tất cả pháp không có tác giả. Vì không tác giả nên không thọ giả, không chúng sanh, không ngã.
Những pháp cú đã nói đây chẳng phải như thật, chẳng phải không như thật. Vì với tất cả pháp chẳng thọ, chẳng chấp, đồng với Niết Bàn lìa hẳn sự chấp trước.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đây là Chư Bồ Tát diễn nói môn Đà La Ni phương tiện sai khác. Với tất cả pháp cần phải rõ biết. Lúc diễn thuyết như vậy, Chư Bồ Tát xa lìa nơi trong, cũng chẳng duyên lấy nơi ngoài, lại có thể quan sát không có thỉ chung.
Nương theo xe sanh tử vào trong thế gian ở nhà vô minh mà trôi lăn cùng khắp. Dầu luân chuyển sanh tử như vậy, nhưng vẫn không sanh tử có thể được, cũng không có thiệt xe sanh tử.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Chư Bồ Tát có thể hiểu rõ pháp này thời mau được trí huệ sáng suốt thuyết pháp thanh tịnh, tu tập nhẫn nhục, có thể tinh tấn, sanh lòng đại từ bi, chí nguyện vững chắc, có thể thành tựu phương tiện diễn thuyết, làm cho chúng sanh trụ bậc vô tránh, có thể phá hoại tất cả tà luận của ngoại đạo, để trừ sự tối tăm cho chúng sanh.
Lúc Bồ Tát này thuyết pháp, được vô lượng Chư Phật ở mười phương khen ngợi. Bồ Tát này phóng ánh sáng pháp chẳng thể nghĩ bàn, là pháp thí chủ, có thể khai thị không mê lầm pháp tạng của Chư Phật, có thể trọn nên Hạnh Nguyện thù thắng, có phương tiện thiện xảo chẳng thể nghĩ bàn, làm cho chúng sanh được mở mang tâm ý.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Trong pháp này Chư Bồ Tát phải siêng tu tập phát khởi môn Tam Ma địa. Tu tập rồi thời chứng nhập được môn Đà La Ni. Được tự tại nơi môn Đà La Ni rồi thời có thể diễn thuyết những danh từ sai khác rộng lớn bí mật, có thể chứng nhập trí từ ngữ vô ngại, có thể thuận nhập nghĩa lý thậm thâm, khéo rõ biết được ý nghĩa của ngôn thuyết không mảy may nghi hoặc. Tự mình có thể trụ bậc nhẫn địa, không phải nhờ người chỉ dạy.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nếu Chư Bồ Tát có thể phát nguyện dũng mãnh tinh tấn vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, mà cầu được các pháp trí, thông đạt tất cả thừa, được Phật trí rốt ráo thanh tịnh thời chẳng khó khăn lắm.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Nơi đây diễn thuyết các pháp môn Đà La Ni phương tiện thậm thâm, chính là Phật vì muốn nhiếp thủ Chư Bồ Tát mà khai thị.
Nay Phật sẽ tuyên nói cho Chư Bồ Tát đều được khai ngộ, khéo nhiếp thủ được ngôn giáo bí mật. Phàm có chỗ làm đều có thể rõ biết nghĩa của tất cả ngữ ngôn âm thinh. Lại có thể chứng nhập trí sai biệt thiện xảo.
Đó là những pháp môn gì?
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Chư Bồ Tát đủ giới đức thanh tịnh, an trụ nơi sức gia trì thật đế, thời có thể thêm lớn được phương tiện bố thí, không ngã sở, không nhiếp thọ, tu tập phương tiện chứng lý nghĩa chân thật của tất cả pháp, được pháp bất thối và khéo trụ bậc bất thối, mau được trí huệ biện tài vô ngã rộng lớn như biển cả.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Đời sau đây ít người có thể cung kính thọ trì pháp này, chỉ trừ Chư Bồ Tát mong cầu pháp như thật thậm thâm, vào pháp tạng của Như Lai.
Chư Bồ Tát này tinh tấn tu học pháp thậm thâm này ngộ nhập lý nghĩa thời có thể được trí vô ngại, cũng có thể rõ biết tự tánh bổn tánh của tất cả pháp.
Này Vô Biên Trang Nghiêm! Giả sử Như Lai dùng các thứ danh từ để diễn thuyết các pháp, nhưng đối với bổn tánh tự tánh của các pháp cũng chẳng trái. Chỗ diễn thuyết của Như Lai không có sở thuyết, không có năng thuyết.
Này Vô Biên Trang Nghiêm!
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Hiền Giả Ngũ Phước đức
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Già ý
Phật Thuyết Kinh Nói Về Cây Chiên đàn
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bốn Mươi Mốt - Phẩm Phật Mẫu - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Ngũ Thiên Ngũ Bách Phật Danh Thần Chú Trừ Chướng Diệt Tội - Phần Mười Ba