Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai Mươi Hai - Pháp Hội đại Thần Biến - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

 PHÁP HỘI THỨ HAI MƯƠI HAI 

PHÁP HỘI ĐẠI THẦN BIẾN   

PHẦN MỘT  

Thọ trai xong Đức Thế Tôn muốn viên mãn sở nguyện cúng dường của Ảo Sư nên lại nói kệ:

Nơi ngưòi cúng vật cúng

Người thọ nếu có thể

Tâm đều vô phân biệt

Đây là cúng viên mãn.

Tôn giả A Nan bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tôi mong Đức Như Lai dùng thần lực gia trì cho ảo sư khiến sự thi thiết trang nghiêm này trong bảy ngày chẳng ẩn mất. Vì đại chúng thỉnh cầu nên Đức Như Lai khiến Đạo Tràng của ảo sư biến hóa ấy mãn bảy ngày trang nghiêm như cũ.

Bấy giờ Đức Như Lai cùng chư Tỳ Kheo và đại Bồ Tát, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà v.v… cung kính vây quanh trở về núi Kỳ Xà Quật để thuyết pháp cho đại chúng.

Ảo Sư Bạt Đà La lại đền đảnh lễ chân Phật, hữu nhiễu ba vòng đứng qua một bên mà bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Xin Đức Phật vì tôi mà dạy các đạo Bồ Tát mà người siêng tu hành mau được đến Đạo Tràng Bồ Đề.

Đức Phật dạy: Ông phải lắng nghe khéo suy nghĩ nhớ hiểu, Như Lai sẽ nói cho ông.

Này Bạt Đà La!

Có bốn pháp là Đạo Bồ Tát, nếu hay tu hành thì mau sẽ đến Đạo Tràng Bồ Đề:

Một là nơi tâm bồ đề chẳng thối thất.

Hai là nơi các chúng sanh thường chẳng rời bỏ.

Ba là nơi tất cả thiện căn cầu không nhàm đủ.

Bốn là hộ trì chánh pháp khởi đại tinh tấn.

Này Bạt Đà La!

Bồ Tát lại có bốn pháp hạnh khắp thanh tịnh:

Một là luật nghi thanh tịnh.

Hai là lạc ý thanh tịnh.

Ba là trí huệ thanh tịnh.

Bốn là thọ sanh thanh tịnh.

Lại có bốn pháp chỉ riêng Bồ Tát thật hành, hàng nhị thừa chẳng vào được:

Một là tu tập thiền định mà chẳng tùy sanh.

Hai là nơi nghĩa thậm thâm hay suy hiểu.

Ba là nơi các chúng sanh khởi tâm đại bi.

Bốn là các thứ biện tài thuyết pháp vô tận.

Lại có bốn pháp là nơi chỗ sở hành:

Một là ưa thích nhàn tịnh.

Hai là nhàm nơi ồn náo.

Ba là nơi các chúng sanh khởi tâm đại bi.

Bốn là hay rõ các hành không có khứ lai.

Lại có bốn pháp tôn trọng cúng dường:

Một là chẳng tiếc thân mạng.

Hai là lòng thường hoan hỷ.

Ba là bỏ rời kiêu mạn.

Bốn là tu hành như lời.

Lại có bốn pháp oai nghi đầy đủ:

Một là biết thời.

Hai là biết xứ.

Ba là tịch tịnh.

Bốn là chân thiệt.

Lại có bốn pháp hay lìa nghi hối:

Một là nơi sự ác tác phải dự phòng giữ gìn.

Hai là nơi người trí phải thích thân cận.

Ba là nơi nghĩa được nghe thường khéo suy nghĩ.

Bốn là chẳng do từ tâm thì chẳng cử tội người.

Lại có bốn pháp đa văn không chán:

Một là vì tăng trưởng chánh trí huệ cho mình và người.

Hai là vì có thể dứt trừ nghi hoặc của người.

Ba là vì hay nhiếp thọ chánh pháp của Phật.

Bốn là vì nơi Chư Như Lai tán thán vô tận vậy.

Lại có bốn pháp đa văn vững thiệt:

Một là nghe chánh pháp rồi hay khéo hiểu rõ.

Hai là nghe chánh pháp rồi chẳng làm các điều ác.

Ba là nghe chánh pháp rồi khai thị cho người.

Bốn là nghe chánh pháp rồi hồi hướng bồ đề.

Lại có bốn pháp thuyết pháp lợi ích:

Một là thường nhận nơi người các uống ăn thơm ngon.

Hai là hằng nhận y phục các thứ cúng dường.

Ba là khiến quyến thuộc ma thế suy lực yếu.

Bốn là Chư Thiên hộ trì ma chẳng hại được.

Lại có bốn pháp khiến người tin ưa pháp đã nói:

Một là vì tâm thiểu dục.

Hai là thường tri túc.

Ba là lời nói dịu dàng.

Bốn là thân thuận theo pháp vậy.

Lại có bốn pháp hay diễn nói chánh pháp không có mong cầu:

Một là ở trong sanh tử lòng luôn lo sợ.

Hai là chẳng cầu thế gian lợi dưỡng thân hữu.

Ba là nơi các chúng sanh thường có lòng ủng hộ.

Bốn là nơi các Thánh chủng có thể tu tập.

Lại có bốn pháp biết ơn báo ơn:

Một là vì khuyên chúng sanh xu hướng bồ đề.

Hai là biết nghiệp lành được làm chẳng hư mất.

Ba là thương chúng sanh như thân mình.

Bốn là hay khéo tu hành Bồ Tát như vậy.

Lại có bốn pháp nơi các chúng sanh làm bạn bất hoại:

Một là hay mặc giáp trụ đại nhẫn nhục.

Hai là phước lợi chúng sanh chẳng cầu báo.

Ba là nơi tâm đại bi thường chẳng thối thất.

Bốn là dầu bị nhiều não hại cũng chẳng bỏ chúng sanh vậy.

Lại có bốn pháp nơi các thiện hữu phải nên thân cận:

Một là thành tựu thiện xảo phương tiện.

Hai là thành tựu thù thắng ý lạc.

Ba là thành tựu Bồ Tát chánh hạnh.

Bốn là thành tựu khuyến tán bồ đề.

Lại có bốn pháp nơi các ác hữu phải nên bỏ lìa:

Một là khen nói Nhị Thừa.

Hai là khiến thối thất bồ đề.

Ba là thêm lớn pháp ác.

Bốn là tổn hư pháp lành.

Lại có bốn pháp được gặp Chư Phật:

Một là vì luôn dùng nhất tâm chuyên niệm Chư Phật.

Hai là vì khen ngợi công đức Chư Phật.

Ba là luật nghi được thọ khắp thanh tịnh.

Bốn là dùng ý lạc thù thắng phát hoằng nguyện vậy.

Lại có bốn pháp cúng dường Chư Phật lòng không lười mỏi:

Một là phải tự vui sướng nay tôi cúng dường phước điền tối thượng.

Hai là do tôi cúng dường nên tất cả chúng sanh cũng cúng dường.

Ba là nhân cúng dường rồi nên tâm bồ đề sẽ được bền vững.

Bốn là do thấy ba mươi hai tướng hảo của Như Lai mà thiện căn tăng trưởng.

Lại có bốn pháp ở nơi các học xứ sanh lòng tôn trọng:

Một là vượt khỏi ác đạo.

Hai là được sanh thiện đạo.

Ba là tôn trọng Như Lai.

Bốn là viên mãn các nguyện.

Lại có bốn pháp học xứ phải học:

Một là nơi tâm bồ đề thường chẳng rời bỏ.

Hai là nơi các chúng sanh tâm hành bình đẳng.

Ba là nơi các Ba la mật tinh tấn tu hành.

Bốn là nghe vô lượng pháp chẳng kinh sợ.

Lại có bốn pháp học xứ thanh tịnh:

Một là chẳng làm điều ác.

Hai là sâu hiểu tánh không.

Ba là chẳng hủy báng Chư Phật.

Bốn là dứt trừ các kiến chấp.

Lại có bốn pháp tam muội chủng tánh:

Một là vì rời ồn náo.

Hai là ưa tịch tịnh.

Ba là tâm không tán loạn.

Bốn là căn lành tăng trưởng vậy.

Lại có bốn pháp tâm như lý phải nên thành tựu:

Một là pháp lành được tu phải hồi hướng bồ đề.

Hai là lòng thường yên lặng không có chấp trước.

Ba là nơi các môn giải thoát thường siêng tu tập.

Bốn là chưa hề cầu chứng Niết Bàn Nhị Thừa.

Lại có bốn pháp tâm bất như lý phải nên rời bỏ:

Một là nơi các sanh tử mà có kinh sợ.

Hai là nơi chỗ tu hành mà chẳng tin nhận.

Ba là nơi giáo pháp bí mật chẳng cầu thắng giải.

Bốn là nơi các thiện căn chẳng siêng tu tập.

Lại có bốn pháp tâm chánh tư duy phải khéo tu học:

Một là Bồ Tát vì chúng sanh cho đến chỉ vì một chúng sanh mà trong vô lượng kiếp thọ khổ sanh tử.

Hai là phải trước biết rõ căn tánh của chúng sanh rồi mới thuyết pháp cho họ trừ bỏ phiền não.

Ba là phải dứt tất cả ác, tu tất cả thiện, hàng phục quân ma chứng vô thượng bồ đề.

Bốn là phải vì chúng sanh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới dùng một phạm âm diễn nói pháp yếu.

Lại có bốn pháp không lòng khiếp nhược mà chẳng gì hại được:

Một là quán tất cả pháp như ảo hóa.

Hai là thường tương ưng với chánh với chánh trí như lý.

Ba là nơi các pháp không có phân biệt.

Bốn là nơi tất cả tướng không có chấp trước.

Lại có bốn pháp tư duy nơi nghĩa:

Một là biết tất cả pháp theo nhân duyên sanh,

Hai là biết không có chút pháp nào gọi là sanh khởi.

Ba là biết pháp duyên sanh ấy chính là không sanh khởi.

Bốn là biết pháp vô sanh cũng không hoại diệt.

Lại có bốn pháp chẳng bỏ chúng sanh:

Một là chẳng bỏ hoằng nghiệp.

Hai là chịu đựng khổ nhọc.

Ba là chẳng tiếc thân mạng.

Bốn là hằng tu bốn nhiếp pháp.

Lại có bốn pháp chẳng nên bỏ rời:

Một là nơi các sự bố thí chẳng bỏ rời.

Hai là thành thục chúng sanh chẳng bỏ rời.

Ba là thường tự giác sát chẳng bỏ rời.

Bốn là tăng trưởng lợi lành cho người chẳng bỏ rời.

Lại có bốn pháp thường phải nhiếp thọ:

Một là thiện căn ít nhỏ cũng phải tu tập.

Hai là tăng trưởng lợi lành cho người lòng không giải đãi.

Ba là nghe nói bố thí trì giới liền hay tin nhận.

Bốn là chẳng cầu tất cả lợi dưỡng danh dự.

Lại có bốn pháp nhập chánh hạnh:

Một là thành tựu thông trí.

Hai là trụ đại tam muội.

Ba là tu tập không tánh.

Bốn là không chỗ chấp trước.

Lại có bốn pháp thiện xảo phương tiện:

Một là Bồ Tát ở nơi phát tâm lấy tâm bồ đề làm Thượng Thủ nhẫn đến phiền não còn khiến thuận đến vô thượng bồ đề huống là các thiện tâm.

Hai là quan sát các chúng sanh nhẫn đến kẻ tà kiến đều thấy là pháp khí.

Ba là biết rõ các pháp không có tự tánh.

Bốn là tu tập giải thoát nơi các môn tam muội không có ý tưởng chấp trước.

Lại có bốn pháp tu tâm đại từ:

Một là tu tâm đại từ cứu hộ chúng sanh.

Hai là tu tâm đại từ độ thoát chúng sanh.

Ba là tu tâm đại từ giác ngộ chúng sanh.

Bốn là tu tâm đại từ để khiến chúng sanh nhập Niết Bàn.

Lại có bốn pháp tu tâm đại bi:

Một là tu tâm đại bi để khiến chúng sanh lìa ác đạo ở thiện đạo.

Hai là tu tâm đại bi để khiến chúng sanh bỏ ác hạnh tập làm pháp lành.

Ba là tu tâm đại bi để khiến chúng sanh  lìa rời tiểu thừa vào đại thừa.

Bốn là tu tâm đại bi để khiến chúng sanh lìa sanh tử được Niết Bàn.

Lại có bốn pháp thành tựu thần thông:

Một là chẳng tiếc thân mạng vì không ái luyến.

Hai là rõ tất cả pháp như ảo hóa.

Ba là với các chúng sanh có lòng tôn trọng.

Bốn là tu Xa Ma Tha không tán loạn.

Lại có bốn pháp được vô ngại biện:

Một là tùy thuận nghĩa chẳng tùy thuận văn.

Hai là tùy thuận pháp chẳng tùy thuận ngưòi.

Ba là liễu đạt các pháp rời lìa văn tự.

Bốn là y văn tự liễu nghĩa diễn thuyết vô tận.

Lại có bốn pháp được Đà La Ni:

Một là nơi các đa văn không có chán đủ.

Hai là nơi người đa văn cung kính cúng dường.

Ba là dùng các thứ danh từ diễn nói nghĩa chân thiệt.

Bốn là tùy có giáo pháp bí mật liền chánh xu nhập.

Lại có bốn pháp hay được pháp nhẫn:

Một là nhiều tu thắng giải.

Hai là không có thối chuyển.

Ba là tư lương viên mãn.

Bốn là siêng tu không mỏi.

Lại có bốn pháp được tịnh biện tài:

Một là nơi người thuyết pháp không có chống nghịch.

Hai là tôn trọng Pháp Sư cung kính nghe nhận.

Ba là chẳng lấy đa văn mà tự kiêu mạn.

Bốn là nơi người ít học chẳng sanh lòng khinh tiện.

Lại có bốn pháp phải xả ly:

Một là nơi tham sân si phải xả ly.

Hai là nơi Thanh Văn thừa phải xả ly.

Ba là nơi Duyên Giác thừa phải xả ly.

Bốn là nơi ý tưởng thiện pháp phải xả ly.

Lại có bốn pháp nhập nghĩa thậm thâm:

Một là nơi pháp hữu vi sâu đạt duyên khỏi.

Hai là nơi nghĩa bí mật hay chánh liễu tri.

Ba là nơi các pháp tánh sâu sanh chánh giải.

Bốn là nơi tất cả pháp liễu đạt nghĩa không.

Lại có bốn pháp làm cho sở nguyện viên mãn:

Một là Thi la thanh tịnh.

Hai là trừ sạch ác nghiệp.

Ba là không có siểm cuống.

Bốn là tăng trưởng thiện căn.

Lại có bốn pháp nơi các Ba la mật được chẳng thối chuyển:

Một là do thiện xảo phương tiện nên nơi một Ba la mật hay thông đạt khắp các Ba la mật.

Hai là do thiện xảo phương tiện tùy rõ một chúng sanh thì rõ khắp tất cả chúng sanh.

Ba là do thiện xảo phương tiện chứng một pháp thanh tịnh thì khắp chứng tất cả pháp thanh tịnh.

Bốn là do thiện xảo phương tiện biết một Đức Phật thì biết rõ khắp tất cả Chư Phật.

Tại sao?

Vì nơi pháp tánh vô sai biệt vậy.

Lúc Đức Thế Tôn nói Bồ Tát tứ pháp môn như vậy, Ảo Sư Bạt Đà La chứng vô sanh nhẫn lòng vui mừng liền bay lên hư không cách đất bảy cây Đa La.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ diện môn của Phật phóng ra vô lượng tia sáng chiếu khắp Thế Giới Chư Phật rồi trở lại thâu vào đảnh Phật. Tôn Giả A Nan nghĩ rằng Đức Như Lai hiện mỉm cười chẳng phải vô cớ.

Liền đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Đức Phật mà nói kệ bạch hỏi:

Đấng Biến Tri Ba Cõi đều biết

Đấng oai đức trí huệ khó lường

Đã thấu bồ đề bờ công đức

Nay hiện mỉm cười có cớ gì

Năm loài chúng sanh ở mười phương

Tâm hành chủng tánh thượng trung hạ

Với họ Như Lai đều biết rõ

Nay hiện mỉm cười có cớ gì

Nhân Thiên Bát Bộ các đại chúng

Phát ra nhiều thứ âm thanh diệu

Sánh với Như Lai âm thanh tịnh

Cho đến chẳng bằng phần Ca La

Thế Tôn ánh sáng khắp mười phương

Chiếu suốt vô lượng các Cõi Phật

Ánh sáng nhật nguyệt Trời Ma Ni

Không gì sánh được sáng của Phật

Đã rõ tánh không pháp thậm thâm

Không ngã không nhân không chúng sanh

Hai bên hữu vô đều rời bỏ

Khéo biết ba thuở như thủy nguyệt

Nay ai bước lên Vô Thượng Thừa

Nối lấy chủng tánh pháp Như Lai

Sanh trong Tam Bảo rộng lớn nhất

Nhân duyên mỉm cười xin Phật nói

Như Lai hiện cười phóng tia sáng

Vì các thừa kia có sai biệt

Ánh sáng trở vào vai gối Phật

Đó là vì người Nhị Thừa kia

Nay Phật phóng ra Vô Lượng Quang

Sáng ấy trở vào ngay đảnh Phật

Đấng Thiên Trung Tôn vì người nào

Ở nơi Phật thừa sẽ thọ ký.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Nay ông có thấy Bạt Đà La này chăng?

Quá chín vạn hai ngàn kiếp nơi cõi Đại Trang Nghiêm trong kiếp Thiện Hóa, Bạt Đà La sẽ thành Phật Hiệu Thần Biến Vương Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.

Cõi Phật ấy nhân dân đông đảo an ổn giàu vui đất bằng êm dịu như bông đâu la, cây hoa cây quả bày hàng thứ lớp, trang nghiêm với tràng phan bảo cái, các âm nhạc tự kêu, hơi thơm khắp chốn, đồ uống ăn cần dùng đều tùy niệm mà đến, vật dụng hưởng thọ như Trời Đao Lợi.

Nước ấy thường hiện các thứ trang nghiêm nên hiệu là Đại Trang Nghiêm. Tất cả nhân dân trong cõi ấy đều an trụ Đại Thừa tin sâu vững chắc. Thần Biến Vương Như Lai thọ bảy ngàn tuổi, chánh pháp trụ thế đủ trăm ức năm.

Lúc sắp nhập Niết Bàn Đức Phật ấy thọ ký vô thượng bồ đề cho Bồ Tát danh xưng rằng: Đời sau ông sẽ thành Phật Hiệu Nhất Thiết Tối Thắng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác.

Bấy giờ Bạt Đà La nghe Đức Phật thọ ký xong từ hư không xuống đảnh lễ chân Phật bạch rằng: Nay tôi quy mạng Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác và pháp Tỳ Kheo.

Bạt Đà La ân cần bạch như vậy vô lượng câu chi số trăm ngàn biến, lại bạch rằng: Như Đức Phật Thế Tôn vì ở nơi chân như không có khác nên nói tất cả pháp không khác chân như, nhẫn đến không sai biệt không thiếu bớt không phân biệt không sanh không tác, nay tôi quy y cũng như vậy.

Tôn Giả A Nan nói với Bạt Đà La: Nếu ông như chân như được Đức Phật nói mà quy y như vậy, nay ông há lại ở trong Phật pháp tánh có sở đắc chăng?

Bạt Đà La nói: Thân tôi tức là Như Lai pháp tánh.

Tại sao?

Vì tôi và Như Lai không hai không khác, vì tất cả pháp đều chân như vậy. Nói là chân như thì tức là các pháp tánh vô sai biệt, tất cả chúng sanh cũng như vậy. Tôn Giả nên biết nói là không hai là không chỗ phân biệt đó là không hai.

Tại sao?

Vì khắp biết các pháp chỉ có danh tự, vì là Phật trí vậy.

Tôn giả bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Rất lạ kỳ ảo sư Bạt Đà La ấy lại có trí huệ biện tài như vậy. Xưa ông ấy dùng ảo hóa mê hoặc thế gian, nay thì dùng trí huệ hoặc loạn.

Đức Phật bảo Bạt Đà La: Ông có thiệt vậy chăng?

Bạt Đà La bạch Phật: Như Đức Phật đã làm những sự hoặc loạn tôi cũng như vậy mà hoặc loạn thế gian.

Tại sao?

Như Phật Thế Tôn ở trong vô ngã mà nói có chúng sanh và thọ giả, đây là đại hoặc loạn ở thế gian. Như Đức Như Lai đã chứng bồ đề rồi chẳng thấy chút pháp sanh tử qua lại mà nói sanh tử qua lại. Như ý tôi thì chỉ có Đức Như Lai là đại hoặc loạn thôi.

Đức Phật nói: Lành thay, lành thay! Như Lời Bạt Đà La nói, ở trong vô ngã nhẫn đến không có sanh tử qua lại mà Chư Phật Như Lai tùy theo thế tục nói sanh tử v.v… cũng không có pháp gọi là Niết Bàn, nhưng vì chứng được pháp Niết Bàn mà nói Niết Bàn.

Bạt Đà La bạch Phật: Tôi xin xuất gia làm Tỳ Kheo.

Đức Phật bảo Di Lặc đại Bồ Tát: Ông nên cạo râu tóc truyền giới cụ túc cho Bạt Đà La. Tuân lời Đức Phật, Di Lặc Bồ Tát cho Bạt Đà La xuất gia thọ giới Cụ Túc.

Được xuất gia rồi, Bạt Đà La bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Xuất gia đây chỉ là hình tướng chẳng phải chân xuất gia. Nếu Chư Bồ Tát chân xuất gia là lìa các tướng ở ba cõi thành thục chúng sanh mới gọi là chân xuất gia. Nói lời trên đây xong, có năm ngàn chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề, đều ở nơi các lậu tâm được giải thoát.

Tôn Giả A Nan bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! 

Kinh này tên là gì?

Chúng tôi phải phụng trì thế nào?

Đức Phật phán: Kinh này tên là Kinh Pháp Môn Thọ Ký Ảo Sư Bạt Đà La, cũng gọi Kinh Tiệm Chứng bồ đề Pháp Môn. Nếu có chúng sanh ở đời mạt thế muốn thấy Như Lai và làm Phật Sự cho chúng sanh thì nên thọ trì đọc tụng Kinh này và rộng giảng thuyết cho mọi người.

Tại sao?

Vì người này đã thấy Như Lai, cũng đã làm Phật Sự cho người rồi. Vì thế nên ở nơi Kinh này mà thọ trì đọc tụng rộng lưu thông là thương xót làm lợi lạc cho chúng sanh. Nếu người muốn đến vô thượng bồ đề cũng ở nơi Kinh này siêng năng tu tập.

Kinh này hay xuất sanh vô thượng bồ đề, vì thế nên cũng gọi là Kinh Xuất Sanh Bồ Đề. Nếu người thọ trì đọc tụng Kinh này thì phải biết Chư Phật ở nơi thân người ấy, huống là y Kinh này tu hành như ý.

Bạt Đà La bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Kinh này cũng gọi là Kinh Phát Giác Thiện Căn.

Tại sao?

Vì nay ở nơi Phật được nghe Kinh này tất cả thiện căn đều hiện tiền vậy.

Đức Phật nói Kinh này rồi, Tôn Giả A Nan và Bạt Đà La cùng Trời, Người, Đại Chúng A Tu La, Càn Thát Bà v.v… nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tin nhận phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần