Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Vô Sanh - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM HAI MƯƠI

PHẨM VÔ SANH  

PHẦN MỘT  

Lúc bấy giờ cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!

Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa khi quán các pháp vì thấy ngã là vô sanh nên rốt ráo thanh tịnh. Vì thấy hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy sắc là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy thọ, tưởng, hành, thức là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy nhãn xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy sắc xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn!Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy nhãn giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy nhĩ giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy tỷ giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy thiệt giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy thân giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy ý giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy địa giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Thánh Đế khổ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy Thánh Đế tập, diệt, đạo là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy vô minh là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy cái không nội là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới.

Cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Bố Thí Ba la mật đa là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy bốn tịnh lự là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy tám giải thoát là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy bốn niệm trụ là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy pháp môn giải thoát không là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy năm loại mắt là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy sáu phép thần thông là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy mười lực của Phật là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả, mười tám Pháp Phật bất cộng là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy trí nhất thiết là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy pháp không quên mất là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy tánh luôn luôn xả là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy tất cả pháp môn Đà La Ni là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy tất cả pháp môn Tam Ma Địa là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy phàm phu là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp phàm phu là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Dự Lưu là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Dự Lưu là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Nhất Lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Nhất Lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Bất Hoàn là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Bất Hoàn là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy A La Hán là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp A La Hán là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Độc Giác là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Pháp Độc Giác là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Bồ Tát là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Pháp Bồ Tát là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, khi quán các pháp, vì thấy Như Lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh. Thấy pháp Như Lai là vô sanh, nên rốt ráo thanh tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Như tôi hiểu nghĩa Ngài vừa nói là ngã, hữu tình v.v… là vô sanh. Sắc, thọ v.v… là vô sanh cho đến Như Lai, pháp Như Lai là vô sanh.

Nếu là như vậy, sự thọ sanh của sáu loài lẽ ra không sai biệt, thì chẳng cần Dự Lưu đắc quả Dự Lưu, Nhất Lai đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn đắc quả Bất Hoàn, A La Hán đắc quả A La Hán. Chẳng cần Độc Giác đắc quả Độc Giác. Chẳng cần Đại Bồ Tát đắc trí nhất thiết tướng, cũng chẳng cần đắc năm loại Bồ Đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp nhất định là vô sanh thì vì duyên cớ gì Dự Lưu vì quả Dự Lưu mà tu phương pháp đoạn trừ ba kiết. Vì duyên cớ gì Nhất Lai vì quả Nhất Lai mà tu phương pháp làm mỏng tham, sân, si.

Vì duyên cớ gì Bất Hoàn vì quả Bất Hoàn mà tu phương pháp đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần. Vì duyên cớ gì A La Hán vì quả A La Hán mà tu phương pháp đoạn trừ năm kiết thượng thuận phần. Vì duyên cớ gì Độc Giác vì quả Độc Giác mà tu phương pháp ngộ duyên khởi.

Vì duyên cớ gì mà Đại Bồ Tát vì việc độ vô lượng các hữu tình mà tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô biên các loại khổ kịch liệt. Vì duyên cớ gì Như Lai chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Vì duyên cớ gì Chư Phật vì hữu tình mà chuyển pháp luân mầu nhiệm?

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện đáp lời Xá Lợi Tử: Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có sự sai biêt về việc thọ sanh của sáu loài. Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có người có khả năng nhập vào cảnh Thánh Đế hiện quán.

Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Dự Lưu đắc quả Dự Lưu, Nhất Lai đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn đắc quả Bất Hoàn, A La Hán đắc quả A La Hán. Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Độc Giác đắc quả vị Độc Giác. Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Đại Bồ Tát đắc trí nhất thiết tướng và năm loại Bồ Đề.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Dự Lưu vì quả Dự Lưu mà tu phương pháp đoạn trừ ba kiết. Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Nhất Lai vì quả Nhất Lai mà tu phương pháp làm mỏng tham, sân, si. Chẳng thấy ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Bất Hoàn vì quả Bất Hoàn mà tu phương pháp đoạn trừ năm kiết thuận hạ phần.

Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có A La Hán vì quả A La Hán mà tu phương pháp đoạn trừ năm loại kiết thuận thượng phần. Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Độc Giác vì quả vị Độc Giác mà tu phương pháp ngộ duyên khởi.

Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Đại Bồ Tát vì độ vô lượng các hữu tình mà tu nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó làm, chịu đủ vô biên các thứ khổ kịch liệt, nhưng các Đại Bồ Tát cũng lại chẳng khởi tưởng về hạnh khổ khó làm.

Vì sao?

Vì chẳng phải trụ ở cái tưởng về hạnh khổ khó làm luôn luôn vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm những việc lợi ích.

Xá Lợi Tử! Nhưng các Đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả hữu tình khởi tâm đại bi, trụ ở tưởng như cha mẹ, tưởng như anh em, tưởng như vợ chồng, tưởng như thân mình. Cứ như vậy, cho đến luôn luôn vì vô lượng, vô số, vô biên hữu tình mà làm việc lợi ích lớn.

Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát nên khởi tâm như vậy. Như tự tánh của ngã, đối với tất cả pháp, dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu cái chẳng thể nắm bắt được. Các pháp nội ngoại cũng lại như vậy, hoàn toàn không sở hữu, đều chẳng thể nắm bắt được.

Vì sao?

Vì các Đại Bồ Tát, nếu trụ ở tưởng này mà tu các hạnh khổ khó làm thì có khả năng làm những việc lợi ích cho vô lượng, vô số, vô biên hữu tình. Cho nên Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp không nên chấp thọ.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải ngã ở trong pháp vô sanh thấy có Chư Phật chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Tôi thật chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp sanh, cũng thật chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp vô sanh.

Xá Lợi Tử hỏi: Nếu vậy thì nay Ngài vì muốn dùng pháp sanh chứng pháp vô sanh, vì muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Tôi cũng chẳng muốn dùng pháp sanh chứng pháp vô sanh cũng lại chẳng muốn dùng pháp vô sanh chứng pháp sanh.

Xá Lợi Tử hỏi: Nếu như vậy thì đâu phải hoàn toàn không đắc, không hiện quán?

Thiện Hiện đáp: Tuy có đắc, có hiện quán nhưng chẳng dùng hai pháp này để chứng.

Xá Lợi Tử! Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có đắc, có hiện quám, chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có đắc, có hiện quán. Chỉ tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có Dự Lưu, có quả Dự Lưu, có Nhất Lai, có quả Nhất Lai, có Bất Hoàn, có quả Bất Hoàn, có A La Hán, có quả A La Hán, có Độc Giác, có quả vị Độc Giác, có Đại Bồ Tát, có quả vị Giác Ngộ cao tột chứ chẳng phải trong thắng nghĩa có Dự Lưu cho đến quả vị Giác Ngộ cao tột.

Xá Lợi Tử hỏi:

Nếu tùy theo thế gian mà đặt bày ra lời nói có đắc, có hiện quán v.v... chứ chẳng phải là thắng nghĩa thì sự sai biệt của sáu loài cũng tùy theo thế gian đặt bày ra lời nói mà có, chứ chẳng phải là thắng nghĩa chăng?

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói.

Vì sao?

Xá Lợi Tử! Vì ở trong thắng nghĩa, không có nghiệp, không có dị thục, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Nay Ngài muốn khiến pháp bất sanh sanh, vì muốn khiến pháp đã sanh sanh chăng?

Thiện Hiện đáp: Tôi chẳng muốn khiến pháp bất sanh sanh, cũng chẳng muốn khiến pháp đã sanh sanh.

Xá Lợi Tử hỏi: Những pháp nào là pháp bất sanh mà Ngài chẳng muốn khiến những pháp ấy sanh?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Sắc là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Sắc xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không.

Xá Lợi Tử! Nhãn giới là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là pháp bất sanh, tôi chẳng muốn khiến sanh.

Vì sao?

Vì tự tánh là không.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần