Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai - Phẩm Thuần đà

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI

PHẨM THUẦN ĐÀ  

Bấy giờ trong Đại hội có vị Ưu Bà Tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu Thi Na, tên là Thuần Đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, vì muốn đem quả lành đến cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chân Phật, buồn khóc rơi lệ, bạch rằng: Ngửa mong Đức Thế Tôn và Tỳ Kheo Tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô lượng chúng sanh được độ.

Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở Đức thế Tôn. Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết Bàn.

Bạch Thế Tôn! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ còn chờ trời mưa. Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não.

Bạch Thế Tôn! Nay đây con đã có trâu giỏi ruộng tốt sạch cỏ, chỉ còn trông chờ trận mưa Pháp Cam Lồ của Như Lai. Người nghèo kia chính là con đây, nghèo nơi của báu Pháp Bảo vô thượng. Ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô lượng chúng sanh.

Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong Đức Như Lai và Chư Tăng dùng được đủ. Ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nưng đỡ, xin Đức Thế Tôn rủ lòng thương xót coi con như La Hầu La.

Đức Thế Tôn, Bậc Nhất Thiết chủng trí vô thượng, Điều Ngự, bảo Thuần Đà rằng: Lành thay! Lành thay! Hôm nay Như Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ mạng, sắc, lực, an lạc vô ngại, biện tài nơi Như Lai. Như Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy.

Thuần Đà! Thí thực có hai, đồng một quả báo. Một là thọ xong liền chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hai là thọ xong liền nhập Niết Bàn. Hôm nay Như Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông, cho ông đầy đủ bố thí Ba la mật.

Thuần Đà liền bạch Phật rằng: Như Đức Thế Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng thí quả báo đồng nhau, theo ý con nghĩ, e rằng không đúng nghĩa. Vì vị thọ thí trước là bậc chưa sạch phiền não, chưa chứng nhất thiết chủng trí cũng chưa có thể làm cho chúng sanh đầy đủ bố thí Ba la mật.

Còn vị thọ thí sau là bậc Nhất Thiết chủng trí, đã sạch phiền não, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ bố thí Ba la mật.

Vị thọ thí trước còn là chúng sanh, vị thọ thí sau là bậc trời trong các trời. Vị thọ thí trước là thân tạp thực, thân phiền não, thân vô thường cuối cùng. Vị thọ thí sau là thân Kim Cang không phiền não, là pháp thân chân thường vô cùng.

Sao lại cho rằng hai sự cúng thí quả báo đồng nhau?

Vị Thọ thí trước chưa được đầy đủ Đàn Ba la mật nhẫn đến bát nhã Ba la mật, chỉ có nhục nhãn chưa có huệ nhãn nhẫn đến Phật nhãn. Vị Thọ thí sau đã được đầy đủ cả sáu Ba la mật nhẫn đến Phật nhãn.

Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?

Bạch Đức Thế Tôn! Vị Thọ thí trước, thọ xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống còn, đặng sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô ngại biện. Vị Thọ họ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả.

Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?

Đức Phật phán: Thuần Đà! Như Lai đã từ vô lượng vô biên vô số kiếp không có những thân ăn uống, thân phiền não, thân sau cùng, mà là thân chân thường, thân Kim Cang, là pháp thân.

Thuần Đà! Người chưa thấy Phật Tánh gọi là thân tạp thực, phiền não, cuối cùng. Lúc đó Bồ Tát thọ đồ ăn uống rồi nhập Kim Cang Tam Muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật Tánh, chứng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Vì lẽ ấy nên Như Lai nói hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau.

Lúc thành đạo, Bồ Tát phá hoại bốn ma, nay nhập Niết Bàn cũng phá hoại bốn ma, nên Như Lai nói hai quả báo không sai khác.

Lúc trước dẫu Bồ Tát chẳng rộng giảng diễn mười hai Bộ Kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết Bàn rộng vì chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như Lai nói hai quả báo đồng nhau.

Thuần Đà! Thân của Như Lai đã từ vô lượng vô số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. Vì hàng Thanh Văn mà nói rằng trước thọ cháo sữa của hai nàng chăn bò là Nan Đà và Nan Đà Ba La, rồi sau mới chứng quả Vô Thượng Chánh Giác, nhưng chính thiệt Như Lai không ăn.

Hôm nay vì đại chúng trong hội này, mà Như Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dưng. Thiệt ra Như Lai không ăn.

Đại chúng nghe Đức Thế Tôn khắp vì Đại hội mà nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần Đà, đều vui mừng hớn hở.

Đồng rập tiếng khen rằng: Lành thay! Lành thay!

Hi hữu thay cho Thuần Đà! Thiệt ông không uổng tên là Thuần Đà. Vì hai chữ Thuần Đà là Hiểu diệu nghĩa. Ông nay kiến lập diệu nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần Đà. Hiện đời đây ông được đầy đủ cả danh tiếng, tài lợi, đức hạnh, chí nguyện.

Rất lạ cho ông Thuần Đà! Sanh trong loài người lại được quả lành vô thượng rất khó được.

Lành thay cho Thuần Đà! Trong đời khó có người thứ hai. Khác nào hoa Ưu Đàm. Đức Phật ra Đời là rất khó. Gặp Phật sanh lòng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, thỉnh được Đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn.

Nam Mô Thuần Đà! Nam Mô Thuần Đà!

Nay ông đã đầy đủ bố thí Ba la mật.

Đại chúng liền nói kệ rằng:

Ông dầu sanh nhân đạo

Đã siêu trời thứ sáu

Tôi cùng tất cả chúng

Nay xin yêu cầu ông

Đấng tối thắng trong người

Nay sẽ nhập Niết Bàn,

Ông nên thương chúng tôi

Xin kíp thỉnh Đức Phật

Ở lâu lại thế gian

Diễn thuyết pháp vô thượng

Mà bậc trí tán thán

Hầu lợi ích chúng sanh.

Nếu ông không thỉnh Phật

Mạng tôi ắt khó toàn

Ông nên vì chúng tôi

Đảnh lễ Đức Điều Ngự.

Thuần Đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống lại.

Ông đảnh lễ Phật mà nói kệ rằng:

Vui thay được lợi mình!

Khéo thọ nơi thân người

Dẹp trừ tham sân si

Thoát hẳn ba ác đạo

Thích thay được lợi mình!

Được gặp kho vàng báu

Gặp gỡ đức Điều Ngự

Chẳng sợ đọa súc sanh

Phật như hoa Ưu Đàm

Khó gặp gỡ tin kính

Gặp rồi trồng căn lành

Dứt hẳn khổ ngạ quỷ,

Laị cũng hay tổn giãm

Chủng loại A tu la.

Hột cải ghim đầu kim

Phật ra đời khó hơn,

Tôi đã đủ đàn độ

Độ thiên nhân sanh tử.

Phật chẳng nhiễm việc đời

Như hoa sen ở nước

Khéo dứt giống Tam Giới

Thoát hẳn dòng sanh tử,

Sanh làm người là khó

Gặp đời Phật cũng khó

Dường như trong biển lớn

Rùa mù gặp bọng cây.

Nay tôi dâng thực phẩm

Nguyện đặng báo vô thượng

Xô phá phiền não kiết

Tất cả không bền chắc.

Nay tôi ở nơi đây

Chẳng cầu thân Nhân Thiên

Dầu có được thân ấy

Cũng không lòng ham thích

Được Phật nhận cúng phẩm

Con vui sướng không lường

Khác nào bông Y Lan

Ngát mùi hương Chiên Đàn.

Thân tôi như Y Lan

Thế Tôn nhận cúng phẩm

Như ngát hương Chiên Đàn

Vì thế tôi vui mừng.

Tôi nay được hiện báu

Chỗ tối thắng thượng diệu

Đế Thích cùng Phạm Thiên

Đều đến cúng dường tôi,

Tất cả các thế gian

Đều sanh lòng buồn khổ

Vì biết Phật Thế Tôn

Muốn nhập Đại Niết Bàn

Đồng cất tiếng xướng to:

Đời sẽ không Điều Ngự

Chẳng nên bỏ chúng sanh

Phải xem như con một

Phật ở giữa Chư Tăng

Diễn thuyết pháp vô thượng

Như núi báu Tu Di

Cao vọi giữa biển cả.

Trí Phật vay khéo dứt

Tối vô minh của tôi

Dường như giữa hư không

Mây nổi đặng mát mẻ

Như Lai khéo dứt trừ

Tất cả các phiền não

Như mặt trời mọc lên

Tan mây sáng khắp soi

Các loài chúng sanh đây

Khóc than sưng cả mắt

Đều bị dòng sanh tử

Đẩy trôi rất khốn khổ.

Đức Thế Tôn cần phải

Thêm căn lành chúng sanh

Vì dứt khổ sanh tử

Ở nán lại thế gian.

Phật bảo Thuần Đà: Đúng như lời ngươi nói. Phật ra Đời là khó như hoa Ưu Đàm. Gặp Phật sanh lòng tin lại khó hơn. Phật sắp nhập Niết Bàn, được cúng dường lần cuối cùng đầy đủ bố thí Ba la mật, lại là việc rất khó gấp bội.

Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng vì đã được dịp cúng dường Như Lai lần cuối cùng, do đây thành tựu bố thí Ba la mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh giới của Chư Phật thảy đều vô thường, tánh và tướng của các hành pháp cũng như vậy.

Đức Phật liền vì Thuần Đà mà nói kệ rằng:

Tất cả các thế gian

Có sanh đều có tử,

Dầu thọ mạng vô lượng

Tất có kỳ phải hết.

Có thạnh tất có suy,

Sum hiệp có biệt ly,

Tuổi trẻ chẳng dừng lâu

Khỏe mạnh bị bệnh xâm,

Sự chết nuốt mạng người

Không có gì thường còn.

Bậc Vua chúa tự tại

Thế lực không ai bằng

Tất cả đều dời đổi

Mạng sống cũng như vậy.

Sự khổ xoay không ngằn

Lưu chuyển không thôi dừng

Ba cõi đều vô thường

Mọi loài không có vui.

Tánh tướng của pháp có

Tất cả đều trống không,

Pháp sanh diệt lưu chuyển

Luôn có những lo khổ,

Sợ sệt, các lỗi ác,

Già, bệnh, chết, buồn rầu.

Những khổ ấy không ngằn

Hư rã nhiều tai hại,

Phiền não bao gói kín

Khác nào tầm ở kén,

Là người có trí huệ

Đâu nên thích chốn này.

Các khổ nhóm nơi thân

Tất cả đều nhơ nhớp,

Tai nạn, ghẻ nhọt thảy

Cội gốc của khổ đau,

Dầu là thân Chư Thiên

Đều cũng giống như vậy.

Dục ái đều vô thường

Nên Phật chẳng tham ưa,

Ly dục khéo tư duy

Đặng chứng quả chân thiệt

Rốt ráo dứt sanh tử

Nay sẽ vào Niết Bàn.

Phật đã vượt bờ kia

Đã thoát hẳn các khổ

Vì thế nên hiện nay

Thuần hưởng những diệu lạc,

Do các nhân duyên ấy

Chứng quả vị chân thiệt

Dứt hẳn những triền phược

Hôm nay vào Niết Bàn.

Phật không già, bệnh, chết,

Thọ mạng vô cùng tận,

Phật nay vào Niết Bàn

Như ngọn lửa lớn tắt.

Thuần Đà! Ông chẳng nên

Suy lường nghĩa Như Lai,

Nên xét tánh Như Lai

Dường như núi Tu Di.

Phật nay vào Niết Bàn

Thọ trì bệ nhất lạc,

Pháp Chư Phật như vậy

Các ông chớ nên khóc.

Thuần Đà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi mòng, đâu có thể nghĩ bàn được nghĩa Niết Bàn sâu kín của Như Lai.

Bạch Thế Tôn! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu chưa thọ giới Cụ Túc, mà đã được dự vào số Chúng Tăng. Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và Bồ Tát, mà con được dự vào số Đại Bồ Tát, đã được cùng hàng với các bậc Đại Long Tượng dứt phiền não, như Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử v.v…

Thế nên hôm nay con muốn Đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết Bàn.

Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử bảo Thuần Đà rằng: Ông chẳng nên nói rằng muốn Đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết Bàn. Ông phải quán sát tánh tướng của hành pháp, quán sát như thế đặng Không Tam Muội. Muốn cầu chánh pháp nên học pháp quán sát như vậy.

Thuần Đà nói: Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đức Như Lai là bậc cao cả nhất trong người trên Trời.

Đức Như Lai như thế há lại là hành pháp sao?

Nếu là hành pháp thời là pháp sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các hành pháp cũng thế. Tôi nghe Chư Thiên sống rất lâu, tại sao Đức Thế Tôn là bậc Trời trong các Trời mà lại sống chẳng đầy trăm tuổi.

Cách hành pháp là pháp sanh tử, nếu Đức Như Lai nhập diệt thời đồng với hành pháp, đâu được gọi là Bậc Trời trong các Trời, là Pháp Vương tự tại. Vì thế chẳng nên xem Đức Như Lai đồng với hành pháp.

Đức Như Lai hàng phục phiền não ma, ngũ ấm ma, Thiên ma, tử ma do nhân duyên ấy mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức chân thiệt, nên hiệu là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, hiệu là Tam Giới Tôn.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi: Chẳng nên ức tưởng phân biệt mà đem pháp Như Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng. Vả kẻ đoản thọ thời chẳng được mọi người kính trọng.

Nếu Đức Như Lai đồng với các hành pháp, ắt chẳng được Sa Môn, Bà La Môn tất cả trời người kính thờ, mà pháp chân thiệt bất biến bất dị của Như Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. Vì lẽ ấy, Ngài chẳng nên nói rằng Như Lai đồng với các hành pháp.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Như bần nữ đang có mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh.

Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa dòng bị nước chảy, xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng bị chết đuối. Vì tấm lòng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên Cõi Phạm Thiên.

Nếu có thiện nam tử muốn hộ trì chánh pháp, chớ nói Như Lai đồng với các hành pháp hay chẳng đồng với các hành pháp.

Chỉ nên tự trách mình ngu si không có huệ nhãn, chánh pháp của Như Lai không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như Lai quyết định là hữu vi, hay vô vi. Nếu là người chánh kiến nên nói Như Lai quyết định là vô vi.

Vì sao thế?

Vì nói Như Lai là vô vi thời có thể sanh pháp lành cho chúng sanh.

Thiện Nam Tử hộ trì chánh pháp thà chết chớ chẳng nói Như Lai đồng với pháp hữu vi, mà chỉ nên nói Như Lai đồng với pháp vô vi. Nhân vì hộ trì chánh pháp nói Như Lai đồng với pháp vô vi mà đặng quả Vô Thượng Chánh Giác.

Như bần nữ thà chết đuối giữa dòng chớ không chịu buông con, nhân đó mà được sanh lên Cõi Phạm Thiên.

Thiện Nam Tử này chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. Khác nào bần nữ kia chẳng cầu sanh Phạm Thiên mà quả Phạm Thiên Tự đến.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Như người đi xa giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngủ, nhà ấy bỗng bốc lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, lòng hổ thẹn sợ thân thể lõa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên Cõi Trời Đao Lợi.

Sau đó tám mươi đời làm Đại Phạm Vương, trăm ngàn đời làm Chuyển Luân Vương, người ấy mãi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị đọa vào ác đạo. Vì duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm quý chẳng nên xem Như Lai đồng với các hành pháp.

Bọn ngoại đạo tà kiến mới được nói Như Lai đồng với pháp hữu vi. Là Tỳ Kheo trì giới đâu nên có quan niệm rằng Như Lai là pháp hữu vi. Nếu nói Như Lai là pháp hữu vi, đó chính là vọng ngữ. Phải biết người này sẽ đọa địa ngục.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Như Lai chân thiệt, chính là pháp vô vi, chẳng nên lại nói là hữu vi. Từ nay ở trong đường sanh tử, Ngài nên bỏ vô trí mà cầu nơi chính trí. Phải biết Như Lai chính là vô vi. Được chánh quán như thế, sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô thượng bồ đề.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khen Thuần Đà rằng: Lành thay! Lành thay! Nay ông đã tạo nhân duyên trường thọ, ông biết được Như Lai là pháp thường trụ, là pháp chẳng biến dị, là pháp vô vi.

Nay ông khéo che đậy tướng Hữu vi của Như Lai, sau này ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô lượng, luôn được an vui, không còn sanh tử sẽ thành bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có lòng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên Cõi Đao Lợi, lại nhiều đời làm Phạm Vương, Chuyển Luân Vương, luôn được an vui chẳng sa ác đạo.

Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu vi của Như Lai. Lát nữa Đức Thế Tôn sẽ giảng rộng về ý nghĩa ấy.

Nên để hữu vi vô vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng dường cơm nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sửa đồ cần thiết cho hàng tứ chúng từ xa hội về đang mỏi mệt. Cúng đường như thế chính là đầy đủ chủng tử căn bổn của Đàn Ba la mật.

Thuần Đà! Nếu cúng dường Đức Phật và Chư Tăng lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu đều phải sớm lo cho kịp giờ. Đức Như Lai sẽ nhập Niết Bàn.

Thuần Đà nói: Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Sao Ngài lại tham chút uống ăn hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ?

Xưa kia Đức Như Lai khổ hạnh trọn sáu năm còn chịu nổi, huống là giây lát hôm nay.

Ngài thiệt cho rằng Đức Như Lai Chánh Giác thọ đồ uống ăn này ư?

Tôi thời biết quyết định thân Như Lai chính là Pháp Thân, không phải thực thân.

Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: Thật đúng như lời của Thuần Đà! Lành thay Thuần Đà! Ông đã thành tựu đại trí huệ, khéo thâm nhập Kinh Điển Đại Thừa.

Văn Thù Sư Lợi nói với Thuần Đà: Ông cho rằng Như Lai là vô vi, thân Như Lai là trường thọ, hiểu biết như vậy Đức Phật rất hài lòng.

Thuần Đà nói: Đức Như Lai chẳng riêng gì hài lòng nơi tôi, mà cũng hài lòng với tất cả chúng sanh.

Văn Thù Sư Lợi nói: Đức Như Lai đối với ông, với tôi, với tất cả chúng sanh, đều hài lòng.

Thuần Đà nói: Ngài chẳng nên nói Đức Như Lai hài lòng. Luận về hài lòng, chính là đảo tưởng. Phàm có đảo tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu vi. Vì lẽ ấy Ngài chẳng nên cho Như Lai là hữu vi. Nếu nói Như Lai là hữu vi thời Ngài cùng tôi đều điên đảo cả.

Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đức Như Lai không có ái niệm. Luận về ái niệm, như trâu mẹ kia ái niệm con của nó, dầu là đói khát đi tìm cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền trở về.

Chư Phật Thế Tôn không có ái niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La Hầu La. Từ niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh giới trí huệ của Chư Phật.

Thưa Ngài Văn thù Sư Lợi! Ví như Quốc Vương ngự trên xe tứ mã, có người muốn cho xe bò theo kịp xe Vua, tất không thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi mật thâm áo của Như Lai cũng không thể được.

Ví như Kim Sí Điểu bay vọt trên cao vô lượng do tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài thủy tộc cùng loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém, không thể suy lường chỗ thấy của Kim Sí Điểu. Cũng thế, Ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như Lai.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thuần Đà rằng: Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không hiểu. Chẳng qua vì muốn đem việc của Bồ Tát thử ông đó thôi.

Bấy giờ Đức Thế Tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu thân Ngài Văn Thù.

Ngài Văn Thù liền bảo Thuần Đà rằng: Nay đây Đức Như Lai hiện thoại tướng từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó là điềm Đức Phật sắp nhập Niết Bàn. Ông phải sớm lo dưng lễ cúng dường lên Đức Phật và Chư Tăng cho kịp giờ.

Đức Phật bảo Thuần Đà: Đã phải giờ cho ông dâng thực phẩm cúng dường Phật và đại chúng. Như Lai sẽ nhập Niết Bàn.

Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy.

Thuần Đà nghe Đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than nức nở: Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng.

Rồi ông lại thưa cùng đại hội: Hôm nay chúng ta phải đồng tha thiết đảnh lễ cầu Đức Phật đừng nhập Niết Bàn.

Đức Thế Tôn lại bảo Thuần Đà: Ông chớ nên khóc than tiều tụy như vậy.

Ông phải quán sát thân này như cây chuối, như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn hóa, như thành Càn Thát Bà, như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như hình vẽ trên nước, như tù sắp hành hình, như trái muồi, như cục thịt, như bức dệt đã hết khổ, như chày giã lên xuống. Phải quán sát các hành pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu vi nhiều tai hại.

Thuần Đà bạch Phật: Đức Thế Tôn chẳng muốn ở lại đời làm sao con không buồn khóc cho được.

Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng. Ngửa mong Đức Thế Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết Bàn.

Phật bảo Thuần Đà: Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông mà ở luôn nơi đời. Chính vì thương xót ông và các chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết Bàn.

Vì sao thế?

Chư Phật Pháp nhĩ như vậy. Pháp hữu vi cũng thế.

Nên Chư Phật nói kệ rằng:

Các pháp hữu vi

Tánh nó vô thường

Sanh rồi chẳng trụ

Tịch diệt là vui.

Thuần Đà! Ông nên quán sát các hành pháp là tạp độc. Các pháp hữu vi là vô ngã vô thường chẳng trụ. Tấm thân này có rất nhiều tai hại như bóng nước. Vì lẽ ấy ông chớ nên khóc lóc.

Thuần Đà bạch Phật: Thật đúng như lời Thế Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết Đức Như Lai phương tiện thị hiện nhập Niết Bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy xét, con lại sanh lòng vui mừng.

Phật khen Thuần Đa: Lành thay! Lành thay! Ông có thể rõ biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập Niết Bàn.

Thuần Đà! Ông nên nghe đây: Như mùa xuân chim Ta La Tà đều nhóm nơi ao A Dậu Đạt. Chư Phật cũng thế đều đến chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ Chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều như tướng huyễn thuật. Như Lai ở trong ấy do sức phương tiện không có nhiễm trước.

Vì sao thế?

Vì Chư Phật Pháp nhĩ như vậy.

Thuần Đà! Nay Như Lai nhận phần cúng dường của ông là vì muốn cho ông thoát khỏi các dòng sanh tử trong Ba Cõi. Hàng Nhân Thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như Lai đây, đều sẽ được quả báo bất động, luôn được an vui.

Vì sao thế?

Vì Như Lai là phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn vì chúng sanh mà làm phước điền, thời phải kịp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trễ.

Bấy giờ Thuần Đà vì các chúng sanh được độ thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật: Lành thay Đức Thế Tôn! Nếu lúc con kham có thể làm phước điền, thời có thể biết rõ Như Lai là nhập Niết Bàn hay chẳng phải nhập Niết Bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh Văn, Duyên Giác nhỏ kém như kiến muỗi, thiệt không thể suy lường Như Lai nhập Niết Bàn hay chẳng phải nhập Niết Bàn.

Bạch xong, Thuần Đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết lòng cung kính, rồi liền cùng Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đi lo sắm sửa thực phẩm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần