Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Ca Diếp Bồ Tát - Phần Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT  

PHẦN BỐN  

Này thiện nam tử! Những điều tránh tụng như vậy là cảnh giới của Chư Phật chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Nếu người nào đối với những việc này sanh lòng nghi còn có thể phá hoại được vô lượng phiền não. Nếu người nào ở trong những việc này sanh lòng quyết định thời gọi là chấp trước.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế nào là chấp trước?

Này thiện nam tử! Những người như vậy hoặc do người khác dạy bảo, hoặc nghe người khác nói, hoặc tự tìm Kinh Điển, với những điều ham thích chẳng thể buông bỏ đây gọi là chấp trước.

Bạch Thế Tôn! Sự chấp trước này là thiện hay là bất thiện?

Này thiện nam tử! Sự chấp trước như vậy chẳng gọi là thiện, vì không thể phá hoại những lưới nghi.

Bạch Thế Tôn! Những người này vốn tự chẳng nghi, sao lại nói rằng chẳng phá hoại lưới nghi?

Này thiện nam tử! Luận về người chẳng nghi chính là nghi.

Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói rằng bậc Tu Đà Hoàn chẳng đọa ba ác đạo. Người này cũng nên gọi là chấp trước, là nghi.

Này thiện nam tử! Nên gọi là quyết định, mà chẳng được gọi là nghi.

Tại sao vậy?

Này thiện nam tử! Như có người trước kia thấy cây thấy người, về sau đi ban đêm từ xa thấy gốc cây trụi, bèn nghi rằng đó là người hay là cây?

Như người trước thấy Tỳ Kheo và Phạm Chí, lúc sau đi đường từ xa thấy Tỳ Kheo bèn nghi rằng đó là Sa Môn hay là Phạm Chí?

Như người trước thấy bò và trâu, lúc sau từ xa thấy bò, bèn nghi rằng đó là bò hay trâu?

Này Thiện Nam Tử! Tất cả chúng sanh trước thấy hai vật về sau bèn sanh nghi, vì trong tâm họ chẳng nhận được rõ ràng.

Ta cũng chẳng nói rằng bậc Tu Đà Hoàn có đọa ba đường ác hay chẳng đọa ba đường ác, cớ gì người này lại sanh lòng nghi!

Bạch Thế Tôn! Như Phật nói phải trước có thấy rồi sau mới nghi. Nhưng có người lúc chưa thấy hai vật cũng lại sanh nghi. Như đối với Niết Bàn. Như có người đi đường gặp dòng nước đục, trước kia chưa từng thấy mà cũng sanh nghi rằng dòng nước này sâu hay cạn.

Này thiện nam tử! Luận về Niết Bàn chính là dứt khổ, chẳng phải là Niết Bàn thời chính là khổ. Tất cả chúng sanh thấy có khổ cùng chẳng phải khổ.

Như thấy đói khát, lạnh nóng, giận mừng, bệnh gầy, an ổn, trẻ, già, sống chết, trói buộc, cởi mở, ân ái biệt ly, oán thù gặp gỡ, sau khi thấy những việc này, chúng sanh bèn nghi rằng sẽ có những gì xa lìa vĩnh viễn những sự khổ não này chăng?

Do đây nên chúng sanh đối với Niết Bàn mà sanh nghi.

Nếu ông cho rằng người đó từ trước đến nay chưa từng thấy dòng nước đục này sao lại sanh nghi. Lời nói này không đúng nghĩa, vì người đó ở nơi chỗ khác đã từng thấy rồi, nên ở nơi chỗ mới đến này mà sanh nghi.

Bạch Thế Tôn! Người đó lúc trước thấy nước sâu cạn đã chẳng sanh nghi, nay cớ gì mà sanh nghi?

Này thiện nam tử! Vì trước kia chưa đi nên sanh nghi. Do đây nên ta nói rằng vì trong tâm họ chẳng nhận được rõ ràng nên sanh nghi.

Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói nghi chính là chấp trước, chấp trước chính là nghi, đây là ngườ nào?

Này thiện nam tử! Là người dứt căn lành.

Bạch Thế Tôn! Những hạng người nào có thể dứt căn lành.

Này thiện nam tử! Người thông minh lanh lợi có thể khéo phân biệt, nếu xa lìa bạn lành chẳng nghe chánh pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng thật hành đúng pháp, người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này vì thiếu bốn điều trên mà tự suy nghĩ rằng: Không có vật bố thí, vì người thí là rời bỏ của cải, nếu bố thí mà có quả báo, thời thí chủ phải thường nghèo cùng, vì nhân cùng quả giống nhau.

Do suy nghĩ những việc như vậy nên người này nói rằng không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Thí chủ, người thọ và tài vật đều là vô thường biến đổi, nếu không biến đổi sao lại nói rằng đây là thí chủ, đây là người thọ, đây là của cải, nếu không người thọ sao lại được quả báo, do nghĩa này nên biết rằng không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng:

Lúc thí chủ bố thí có năm sự bố thí: Người thọ thí khi lãnh được của cải rồi hoặc làm lành, hoặc làm điều chẳng lành, mà thí chủ này cũng chẳng mắc phải quả báo lành hay chẳng lành, như trong đời từ hột sanh ra trái, rồi từ trái trở lại có hột.

Nhân chính là thí chủ, quả chính là người thọ, mà người thọ này không thể đem điều thiện, điều bất thiện của mình đã làm khiến cho thí chủ được quả báo thiện cùng bất thiện, do nghĩa này nên không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy, nên biết người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Không có vật bố thí, vì vật bố thí là vô ký, đã là vô ký thời đâu có quả báo lành, không quả báo lành tức là vô ký, của vật nếu là vô ký nên biết rằng không có quả báo thiện ác, nên không có sự bố thí không nhân không quả. Nếu nói rằng không nhân không quả như vậy phải biết người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Người bố thí do nơi ý, ý này chẳng phải là sắc pháp, không thể thấy không đối Tượng, đã chẳng phải là sắc pháp thời đâu có thể bố thí, do đây nên không có sự bố thí không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh lại suy nghĩ rằng: Nếu thí chủ cúng thí cho Tượng Phật, Tượng Chư Thiên cho cha mẹ đã qua đời, như vậy là có người thí mà không người thọ, nếu không người thọ thời lẽ ra không quả báo, nếu không quả báo thời là không nhân, nếu đã không nhân thời là không quả. Nếu nói không nhân quả như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Không cha không mẹ. Nếu nói cha mẹ là nhân sanh ra chúng sanh, đúng lý phải thường sanh không có đoạn tuyệt, vì nhân là thường có, nhưng chẳng thường sanh, do đây nên biết rằng không có cha mẹ.

Người này lại nghĩ rằng: Không cha không mẹ. Vì nếu thân chúng sanh do cha mẹ mà có, lẽ ra một người phải đủ cả hai căn nam nữ, nhưng sự thật không có đủ, do đây biết rằng chúng sanh chẳng phải do cha mẹ mà có.

Người này lại nghĩ rằng chẳng phải do cha mẹ mà có ra chúng sanh, vì chính mắt họ thấy chúng sanh chẳng giống với cha mẹ, nghĩa là thân hình diện mạo tâm tánh đi đứng cử động chẳng giống với cha mẹ, nên cha mẹ chẳng phải là nhân sanh ra chúng sanh.

Người này lại nghĩ rằng trong đời có bốn thứ không có:

Một là chưa sanh gọi là không có, như lúc còn là viên đất sét thời chưa có công dụng của cái bình.

Hai là đã diệt mất gọi là không có, như cái bình đã bể hư thời gọi là không có.

Ba là riêng khác nhau nên lẫn không có, như trong bò không có ngựa trong ngựa không có bò.

Bốn là rốt ráo gọi là không có, như sừng thỏ lông rùa.

Cha mẹ cũng đồng như bốn thứ không có này. Nếu nói cha mẹ là nhân có ra chúng sanh, lúc cha mẹ chết đứa con bất tất cũng chết, do đây nên cha mẹ chẳng phải là nhân sanh ra chúng sanh.

Người này lại nghĩ rằng: Nếu nói cha mẹ là nhân sanh ra chúng sanh, lẽ ra nhân nơi cha mẹ thường sanh ra chúng sanh, nhưng lại có hóa sanh và thấp sanh, do đây nên biết chẳng phải nhân nơi cha mẹ sanh ra chúng sanh.

Người này lại nghĩ rằng: Tự có chúng sanh chẳng phải nhân nơi cha mẹ mà được sanh trưởng như chim công nghe tiếng sấm nổ mà có trứng, như chim thanh tước uống nước mắt của chim tước trống mà có trứng, như chim cộng mạng thấy chim trống múa bèn có trứng.

Người này lúc suy nghĩ những điều trên đây nếu chẳng gặp được bậc thiện tri thức khai thị, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Trong đời không có quả thiện ác, vì có những chúng sanh tu tập đủ mười điều lành, ưa thật hành bố thí siêng làm công đức, mà những người này cũng lại bị các bệnh tật nhóm trên thân, hoặc chết yểu, hoặc mất của, hoặc nhiều sự lo khổ.

Cũng có những người tạo đủ mười điều dữ, tham lam bỏn xẻn tật đố giải đãi, mà lại mạnh khỏe sống lâu, hoặc giàu có không sầu khổ, do đây nên biết rằng không có quả thiện ác.

Người này lại nghĩ rằng: Tôi cũng từng nghe các Thánh Nhân nói có người tu tập pháp lành khi chết bị đọa trong ba đường dữ. Có người làm điều ác khi chết sanh trong loài người trên Trời, do đây nên biết rằng không quả thiện ác.

Người này lại nghĩ rằng:

Các Thánh Nhân nói hai thuyết: Hoặc nói sát sanh được quả báo lành, hoặc nói sát sanh mắc quả báo dữ. Thánh Nhân còn nói bất định, tại sao tôi lại nói quyết định, do đây nên biết không có quả thiện ác.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: trong đời không có Thánh Nhân, vì nếu nói là Thánh Nhân thời phải chứng được Thánh đạo. Tất cả chúng sanh lúc có đủ phiền não tu hành chánh đạo, nên biết rằng người này đồng thời đủ có phiền não và chánh đạo.

Nếu đồng thời có thời chánh đạo chẳng phá được kiết sử.

Nếu không phiền não mà tu hành chánh đạo, thời chánh đạo ấy dùng làm gì?

Do đây nên người đủ phiền não thời chánh đạo chẳng thể phá hoại được, người không phiền não thời chánh đạo lại vô dụng. Do đây nên biết trong đời không có bậc Thánh Nhân.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Vô minh làm duyên cho hành, nhẫn đến sanh làm duyên cho Lão Tử, mười hai nhân duyên này tất cả chúng sanh đồng có.

Tám Thánh đạo tánh nó bình đẳng cũng như vậy, lúc một người được, thời tất cả người lẽ ra cũng được, lúc một người tu hành lẽ ra tất cả khổ đều diệt, vì phiền não bình đẳng. Mà nay chẳng đồng chứng đặng, do đây nên biết rằng không có chánh đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Các Thánh Nhân đều có những pháp đồng với phàm phu, như là uống ăn, đi đứng ngồi nằm, ngủ nghỉ, vui cười, đói khát, lạnh nóng, lo buồn sợ sệt.

Nếu đã đồng với phàm phu có những việc như vậy, nên biết rằng bậc Thánh Nhân chẳng chứng được Thánh đạo, nếu đã được Thánh đạo lẽ ra phải dứt hẳn những việc như vậy. Những việc như vậy nếu đã chẳng dứt, do đây nên biết rằng không Thánh đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Thánh Nhân có thân thọ vui ngũ dục, cũng mắng nhiếc đánh đập người, cũng tật đố kiêu mạn thọ những sự khổ vui, tạo nghiệp thiện ác, do đây nên biết rằng không có Thánh Nhân. Nếu có chánh đạo lẽ ra đã dứt những việc này, nếu những việc này chẳng dứt nên biết rằng không chánh đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Người nhiều lòng từ mẫn gọi là Thánh Nhân.

Do nhân duyên gì gọi là Thánh Nhân?

Nhân nơi Thánh đạo mà gọi là Thánh Nhân. Nếu tánh của Thánh đạo là từ mẫn, thời nên thương xót tất cả chúng sanh, chẳng cần chờ tu hành rồi mới đặng.

Nếu Hư Không từ mẫn cớ sao Thánh Nhân chứng được Thánh đạo lại hay từ mẫn, do đây nên biết trong đời không có Thánh đạo.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Tất cả tứ đại chẳng từ nhân duyên sanh. Chúng sanh đồng có tánh tứ đại này. Chẳng quán sát chúng sanh đáng đến bờ này, chẳng đáng đến bờ kia, nếu là có Thánh đạo, thời tánh của Thánh đạo lẽ ra cũng như vậy, nhưng nay chẳng phải như vậy, do đây nên biết rằng trong đời không có Thánh Nhân.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Nếu các bậc Thánh Nhân có một Niết Bàn thời nên biết rằng không có Thánh Nhân. Vì Niết Bàn là bất khả đắc.

Pháp thường trụ là bất khả đắc chẳng thể lấy chẳng thể bỏ. Nếu các bậc Thánh Nhân có nhiều Niết Bàn thời là vô thường, vì là pháp có thể đếm được. Niết Bàn nếu là một, lúc một người được thời lẽ ra tất cả đều được.

Nếu Niết Bàn là nhiều thời là có chừng ngằn, nếu là có chừng ngằn thời đâu được gọi là thường trụ.

Nếu nói rằng thể của Niết Bàn là một, mà người giải thoát là nhiều, như một cây lọng là một mà cọng cánh lá nhiều, lời nói này chẳng đúng nghĩa, vì mỗi người chứng đặng chẳng phải tất cả người chứng đặng, bởi có chừng ngằn lẽ ra là vô thường nếu đã là vô thường thời đâu được gọi là Niết Bàn.

Nếu không có Niết Bàn thời ai là bậc Thánh Nhân?

Do đây nên biết rằng không có Thánh Nhân.

Người thông minh này lại nghĩ rằng: Chánh đạo của Thánh Nhân chẳng phải do nhân duyên mà được. Nếu chánh đạo của Thánh Nhân đã chẳng phải do nhân duyên mà được, cớ sao tất cả chúng sanh chẳng làm Thánh Nhân. Nếu tất cả người chẳng phải là Thánh Nhân, thời biết rằng không có Thánh Nhân và không có Thánh đạo.

Người thông minh lại nghĩ rằng:

Thánh Nhân nói có hai nhân duyên được chánh kiến: Một là nghe người khác thuyết pháp, hai là tự mình tư duy.

Hai nhân duyên này đã từ duyên sanh, thời duyên này lại từ duyên khác mà sanh, xoay vần mãi như vậy thành ra có lỗi vô cùng.

Nếu hai nhân duyên này chẳng từ duyên sanh, thời tất cả chúng sanh do cớ gì mà chẳng đều được.

Lúc người thông minh này suy nghĩ những điều như trên thời có thể dứt mất căn lành.

Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào chấp chặt những điều không nhân không quả như vậy người này có thể dứt mất năm căn: Tín, tấn, niệm, định và huệ. Người dứt mất căn lành chẳng phải là người hạ liệt, ngu độn, cũng chẳng phải Chư thiên, chẳng phải ba ác đạo. Người phá Tăng cũng như vậy.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Người như vậy, lúc nào sẽ có thể sanh căn lành trở lại.

Này thiện nam tử! Người này có hai lúc sanh căn lành trở lại: Lúc mới vào địa ngục và lúc ra khỏi địa ngục.

Này thiện nam tử! Căn lành có ba thứ: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu là quá khứ thời tánh nó tự diệt, dầu nhân diệt nhưng quả báo chưa thục nên chẳng gọi là dứt quả quá khứ. Vì dứt nhân lành ba đời nên gọi là dứt mất.

Bạch Thế Tôn! Nếu dứt nhân lành ba đời mà gọi là mất căn lành, người dứt căn lành vẫn có Phật Tánh, Phật Tánh này là quá khứ, là hiện tại, là vị lai, hay là khắp cả ba đời?

Nếu là quá khứ thế nào gọi là thường.

Phật Tánh là thường trụ nên biết rằng không phải là quá khứ.

Nếu là vị lai thế nào gọi là thường?

Cớ sao Phật nói rằng tất cả chúng sanh quyết định sẽ được?

Nếu quyết định được thời sao lại nói rằng dứt mất?

Nếu là hiện tại sao lại là thường?

Cớ sao lại nói rằng quyết định có thể thấy?

Đức Như Lai cũng nói rằng Phật Tánh cũng có sáu: Một là thường, hai là chân, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Nếu người dứt mất thiện căn mà có Phật Tánh thời chẳng được gọi là dứt mất căn lành. Nếu không có Phật Tánh sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.

Nếu nói rằng Phật Tánh cũng có, cũng dứt, thế nào Đức Như Lai lại nói Phật Tánh là thường trụ?

Này thiện nam tử! Đức Như Lai vì chúng sanh nên có ba thứ giải đáp: Một là đáp quyết định, hai là phân biệt mà đáp, ba là theo lời hỏi mà đáp, bốn là yên lặng mà đáp.

Thế nào là quyết định đáp?

Nếu có ai hỏi rằng nghiệp ác cảm quả lành hay quả chẳng lành?

Thời nêu quyết định đáp rằng cảm quả chẳng lành. Hỏi thiện nghiệp cũng đáp như vậy.

Nếu hỏi Đức Như Lai có phải là bậc nhất thiết trí chăng?

Thời nên quyết định đáp rằng là bậc nhất thiết trí.

Nếu hỏi Phật Pháp là thanh tịnh chăng?

Thời nên quyết định đáp rằng là thanh tịnh.

Nếu hỏi đệ tử của Phật có ăn ở đúng như pháp chăng?

Thời nên quyết định đáp rằng có đúng như pháp mà ở. Đây gọi là quyết định đáp.

Thế nào là phân biệt mà đáp?

Như Đức Phật giảng nói bốn chân đế.

Thế nào là bốn?

Là khổ tập diệt đạo.

Sao gọi rằng khổ đế?

Vì có tám điều khổ nên gọi là khổ đế.

Thế nào là tập đế?

Vì là nhân của ngũ ấm nên gọi là tập đế.

Thế nào là diệt đến?

Vì đã dứt hẳn tham sân si nên gọi là diệt đế.

Thế nào là đạo đế?

Ba mươi bảy pháp trợ đạo gọi đó là đạo đế.

Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Thế nào là theo lời hỏi mà đáp?

Hỏi rằng Đức Thế Tôn nói những pháp gì là vô thường?

Đáp rằng Đức Như Lai nói pháp hữu vi là vô thường. Vô ngã cũng như vậy.

Hỏi rằng Đức Thế Tôn vì những pháp gì mà nói tất cả đốt cháy?

Đáp rằng Đức Như Lai vì tham, sân, si mà nói tất cả đốt cháy.

Này thiện nam tử! Đức Như Lai có mười trí lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, đại từ đại bi, Thủ Lăng Nghiêm v.v… tám muôn ức môn tam muội, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, năm trí ấn v.v… ba muôn năm ngàn môn tam muội, Kim Cang Định v.v… bốn ngàn hai trăm môn tam muội, vô lượng vô biên phương tiện tam muội, những công đức trên đây là Phật Tánh của Phật.

Phật Tánh này có bảy điều: Thường, lạc, ngã, tịnh, chân, thật và thiện. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Này thiện nam tử! Phật Tánh của Bồ Tát thân rốt sau có sáu điều: Thường, tịnh, chân, thật, thiện và thiểu kiến. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Như trước kia ông hỏi: Người dứt mất căn lành có Phật Tánh. Người này cũng có Phật Tánh của Như Lai, cũng có Phật Tánh của Bồ Tát thân rốt sau. Hai Phật Tánh này vì chướng ngại vị lai nên được gọi là không, vì rốt ráo sẽ được nên gọi là có. Đây gọi là phân biệt mà đáp.

Phật Tánh của Như Lai chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.

Phật Tánh của Bồ Tát thân rốt sau là hiện tại và vị lai: Vì có thể thấy phần ít nên gọi là hiện tại, vì chưa thấy đầy đủ nên gọi là vị lai.

Đức Như Lai lúc chưa chứng được Vô Thượng Bồ Đề, về nhân Phật Tánh cũng là quá khứ, hiện tại và vị lai.

Về quả Phật Tánh thời chẳng như vậy: Có là ba đời, có chẳng phải ba đời.

Phật Tánh của Bồ Tát thân rốt sau về nhân cũng là ba đời, về quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà đáp.

Phật Tánh của Cửu Trụ Bồ Tát có sáu điều: Thường, thiện, chân, thật, tịnh, khả kiến. Nhân Phật Tánh cũng là ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà nói.

Bát Trụ Bồ Tát xuống đến bậc Lục Trụ, Phật Tánh có năm điều: Chân, thật, tịnh, thiện và khả kiến. Nhân Phật Tánh cũng là ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà đáp.

Ngũ Trụ Bồ Tát xuống đến bậc Sơ Trụ, Phật Tánh có năm điều: Chân, thật, tịnh, khả kiến và thiện bất thiện.

Này thiện nam tử! Năm thứ Phật Tánh, sáu thứ Phật Tánh, bảy thứ Phật Tánh, người dứt mất căn lành quyết sẽ được nên gọi là có, đây gọi là phân biệt mà đáp.

Nếu nói rằng người dứt mất căn lành quyết định có Phật Tánh quyết định không Phật Tánh.

Đây gọi là yên lặng mà đáp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần