Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Kiều Trần Như - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI NĂM
PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ
PHẦN BA
Thưa Cù Đàm! Nếu thấy tội lỗi như vậy mà chẳng chấp trước chẳng nói.
Nay Cù Đàm thấy gì?
Trước gì?
Tuyên thuyết những gì?
Này thiện nam tử! Luận về người kiến trước gọi là pháp sanh tử. Như Lai đã rời pháp sanh tử nên chẳng kiến trước. Như Lai gọi là năng kiến, năng thuyết, mà chẳng phải là chấp trước.
Thưa Cù Đàm! Thế nào là năng kiến?
Thế nào là năng thuyết?
Này thiện nam tử! Ta có thể thấy rõ khổ tập diệt đạo, ta phân biệt tuyên thuyết bốn đế lý này như vậy. Vì ta thấy như vậy nên xa lìa được tất cả kiến chấp, tất cả ái, tất cả lưu, tất cả mạn. Do đây nên ta có đủ phạm hạnh thanh tịnh tịch tịnh vô thượng, được thân thường trụ. Thân đây chẳng phải đông tây nam bắc.
Thưa Cù Đàm! Cớ gì thân thường trụ chẳng phải đông tây nam bắc?
Này thiện nam tử! Nay ta hỏi ông tùy ý ông đáp.
Này thiện nam tử! Như ở trước ông đốt đống lửa lớn, đương lúc lửa cháy ông có biết là lửa cháy không?
Tôi biết là lửa cháy.
Lúc lửa tắt ông có biết là lửa tắt không?
Tôi biết là lửa tắt.
Này Phú Na! Nếu có người hỏi ông đống lửa trước mặt ông từ đâu mà cháy?
Tắt rồi đi về đâu?
Thời ông sẽ đáp thế nào?
Thưa Cù Đàm! Tôi sẽ đáp rằng: Lúc lửa này có ra là nhờ các duyên. Duyên cũ đã hết, duyên mới chưa đến thời lửa này phải tắt.
Này Phú Na! Nếu họ lại hỏi lửa này đã tắt đi đến chỗ nào?
Thời ông sẽ đáp ra sao?
Thưa Cù Đàm! Tôi sẽ đáp rằng: Duyên hết nên tắt chẳng đến chỗ nào.
Này thiện nam tử! Như Lai cũng như vậy. Sắc vô thường nhẫn đến thức vô thường do ái mà cháy lên, vì cháy lên mà phải thọ lấy thân trong hai mươi lăm cõi.
Lúc cháy lên đó có thể nói là Đông, Tây, Nam, Bắc. Hiện tại ái đã diệt, quả báo hai mươi lăm cõi chẳng còn cháy, vì chẳng cháy nên không thể nói là có Đông, Tây, Nam, Bắc…
Này thiện nam tử! Như Lai đã dứt sắc ấm vô thường nhẫn đến dứt thức ấm vô thường, nên thân của Như Lai là thường trụ. Thân đã là thường chẳng nói rằng có Đông Tây Nam Bắc. Phú Na thưa rằng xin trình bày một ví dụ, mong Thế Tôn nghe cho.
Lành thay! Lành thay! Ông cứ tùy ý mà nói.
Bạch Thế Tôn! Như ngoài thôn lớn có rừng Ta La, trong rừng có một cây mọc trước khi thành rừng đủ một trăm năm. Lúc đó chủ rừng lấy nước tưới cây này, theo thời tiết mà săn sóc. Cây này già, mục, vỏ, lá, nhánh đều rơi rớt chỉ còn lõi chắc.
Đức Như Lai cũng như vậy: Tất cả những gì có đã cũ hư thảy đều trừ hết, chỉ còn có tất cả pháp chân thật.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi rất thích xuất gia tu hành.
Phật bảo: Thiện Lai Tỳ Kheo! Vừa dứt tiến, Phú Na liền biến thành tướng Tỳ Kheo, dứt hết phiền não, chứng được quả A La Hán.
Lại có Phạm Chí tên Thanh Tịnh lên tiếng rằng: Thưa Cù Đàm! Do chẳng biết pháp gì mà tất cả chúng sanh thấy thế gian là thường, là vô thường, cũng thường, cũng vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, nhẫn đến chẳng phải như mà đi, chẳng phải chẳng như mà đi?
Này thiện nam tử! Vì chẳng biết sắc, nhẫn đến chẳng biết thức nên thấy thế gian là thường, nhẫn đến thấy chẳng phải chẳng như mà đi.
Thưa Cù Đàm! Do chúng sanh biết pháp gì mà chẳng thấy thế gian là thường nhẫn đến chẳng thấy chẳng phải, chẳng như mà đi?
Này thiện nam tử! Vì biết sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên chẳng thấy thế gian là thường nhẫn đến chẳng thấy chẳng phải chẳng như mà đi.
Bạch Thế Tôn! Xin vì tôi mà giải thuyết thế gian là thường cùng vô thường.
Này thiện nam tử! Nếu người bỏ nghiệp cũ chẳng gây tạo nghiệp mới, người này có thể biết thường cùng vô thường.
Bạch Thế Tôn! Tôi đã hiểu biết.
Này thiện nam tử! Ông thấy biết thế nào?
Bạch Thế Tôn! Cũ là nói vô minh cùng ái, mới là nói thủ và hữu. Nếu người xa lìa vô minh ái này mà chẳng gây tạo thủ và hữu, người này thật biết thường và vô thường. Nay tôi đã được pháp nhẫn thanh tịnh quy y Tam Bảo. Xin Đức Như Lai cho tôi xuất gia.
Phật bảo Kiều Trần Như cho Phạm Chí Thanh Tịnh này xuất gia. Ngài Kiều Trần Như tuân lời Phật, đắc Thanh Tịnh đến trong Tăng làm pháp Yết Ma cho xuất gia. Sau đó mười lăm ngày, Tỳ Kheo thanh tịnh dứt hết phiền não chứng quả A La Hán.
Phạm Chí Độc Tử thưa rằng: Thưa Cù Đàm! Nay tôi muốn hỏi Ngài có cho phép chăng?
Đức Như Lai nín lặng.
Thưa lần thứ hai lần thứ ba, Đức Như Lai vẫn nín lặng.
Độc Tử thưa rằng: Từ lâu tôi cùng Ngài vẫn là thân hữu, Ngài cùng tôi nghĩa không có khác, nay tôi muốn hỏi han, cớ sao Ngài lại nín lặng?
Lúc đó Đức Thế Tôn nghĩ rằng: Phạm Chí này tánh tình nho nhã thuần thiện ngay thẳng. Thường vì muốn hiểu biết mà đến thưa hỏi, chẳng phải vì não loạn. Nếu ông ấy có hỏi ta nên tùy ý đáp.
Suy nghĩ xong Phật nói rằng: Lành thay! Lành thay! Ông cứ theo chỗ nghi mà hỏi ta sẽ giải đáp cho.
Độc Tử thưa rằng: Thế gian có pháp lành chăng?
Này Phạm Chí! Thế gian có pháp lành.
Thưa Cù Đàm! Thế gian có pháp chẳng lành chăng?
Này Phạm Chí! Thế gian có pháp chẳng lành.
Xin Cù Đàm vì tôi mà giảng nói, cho tôi biết pháp lành và pháp chẳng lành.
Này thiện nam tử! Ta có thể phân biệt giảng rộng nghĩa đó. Nay sẽ vì ông mà nói lược.
Này thiện nam tử! Dục gọi là pháp chẳng lành, giải thoát dục gọi là pháp lành. Sân cùng si cũng như vậy. Sát sanh là pháp chẳng lành, chẳng sát sanh là pháp lành, nhẫn đến tà kiến cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ta đã vì ông mà nói ba thứ pháp lành cùng chẳng lành và nói mười thứ pháp lành cùng chẳng lành. Nếu hàng đệ tử của ta có thể hiểu biết ba thứ nhẫn đến mười thứ pháp lành cùng chẳng lành như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt hết tham sân, si tất cả phiền não, dứt tất cả quả báo sanh tử.
Thưa Cù Đàm! Trong Phật Pháp có một Tỳ Kheo nào được như vậy chăng?
Này thiện nam tử! rong Phật Pháp chẳng phải chỉ có một hai người nhẫn đến trăm ngàn người, mà có vô lượng Tỳ Kheo dứt được tham, sân, si tất cả phiền não, tất cả quả báo sanh tử như vậy.
Thưa Cù Đàm! Trong Phật Pháp có một Tỳ Kheo Ni nào được như vậy chăng?
Này thiện nam tử! Trong Phật Pháp đây cũng có vô lượng Tỳ Kheo Ni dứt được tham, sân, si tất cả phiền não, tất cả quả báo sanh tử.
Thưa Cù Đàm! Trong Phật Pháp có Ưu Bà Tắc nào siêng năng giữ giới dứt được lưới nghi chăng?
Này thiện nam tử! Trong Phật Pháp của ta có vô lượng Ưu Bà Tắc tinh tấn giữ giới thanh tịnh, dứt được năm phẩm kiết sử bậc hạ, được quả A Na Hàm, dứt được lưới nghi.
Thưa Cù Đàm! Trong Phật Pháp có Ưu Bà Di nào tinh cần trì giới thanh tịnh dứt được lưới nghi chăng?
Này thiện nam tử! Trong Phật Pháp ta có vô lượng Ưu Bà Di tinh cần trì giới thanh tịnh dứt năm phẩm kiết sử bậc hạ, dứt được lưới nghi, chứng quả A Na Hàm.
Thưa Cù Đàm! Ngoài những vị trên, trong Phật Pháp có Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di nào hưởng lạc thú ngũ dục mà tâm dứt được lưới nghi chăng?
Này thiện nam tử! Trong Phật Pháp ta vô lượng Ưu Bà Tắc cũng như Ưu Bà Di dứt ba phẩm kiết sử được quả Tu Đà Hoàn. Người tham, sân, si mỏng thời được quả Tư Đà Hàm.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi thích nói thí dụ, xin Ngài cho phép.
Lành thay! Ông thích nói thời cứ nói.
Bạch Thế Tôn! Như Long Vương Nan Đà và Bạt Nan Đà bình đẳng mưa to. Pháp dụ của Như Lai cũng như vậy, bình đẳng mưa xuống hàng Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di.
Bạch Thế Tôn! Nếu hàng ngoại đạo muốn đến Phật Pháp để xuất gia, chẳng rõ Đức Như Lai thử họ trong mấy tháng?
Này thiện nam tử! Thử họ trong bốn tháng, nhưng bất tất hết thảy đều một hạng.
Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng đều một hạng, xin đức đại từ cho tôi xuất gia. Đức Thế Tôn bảo Kiều Trần Như cho Độc Tử xuất gia thọ giới. Sau đó mười lăm ngày, Độc Tử được quả Tu Đà Hoàn. Độc Tử nghĩ rằng nếu người có trí huệ do nơi học mà được, nay tôi đã được có thể đến ra mắt Phật.
Liền đến lễ Phật bạch rằng: Thế Tôn! Những người có trí huệ từ nơi học mà được, nay tôi đã được. Xin Đức Thế Tôn vì tôi mà giảng thuyết cho tôi được trí huệ vô học.
Này thiện nam tử! Ông nên tinh tấn tu tập hai pháp: Chỉ và quán. Nếu có Tỳ Kheo muốn được quả Tu Đà Hoàn cũng phải siêng tu tập hai pháp như vậy. Nếu muốn được Tư Đà Hàm, A Na hàm, A La Hán cũng phải tu tập hai pháp như vậy.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo muốn được tứ thiền, tứ vô lượng tâm, lục thần thông, bát bội xả, bát thắng xứ, vô tránh trí, đảnh trí, tất cánh trí, tứ vô ngại trí, Kim Cang tam muội, tận trí, vô sanh trí, cũng phải tu tập hai pháp như vậy.
Này thiện nam tử! Nếu muốn được bậc Thập Trụ, vô sanh pháp nhẫn, vô tướng pháp nhẫn, bất khả tư nghì pháp nhẫn, Thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh, Bồ Tát hạnh, hư không tam muội, trí ấn tam muội, không vô tướng vô tác tam muội, địa tam muội, bất thối tam muội, Thủ Lăng Nghiêm tam muội, Kim Cang tam muội, vô thượng bồ đề Phật hạnh, cũng phải tu tập hai pháp như vậy.
Độc Tử nghe xong lễ Phật lui ra, ở trong rừng Ta La tu tập hai pháp chỉ quán, chẳng bao lâu được quả A La Hán.
Lúc đó lại có vô lượng Tỳ Kheo muốn đến chỗ Phật.
Độc Tử hỏi rằng: Chư Đại Đức muốn đến đâu?
Các Tỳ Kheo nói: Chúng tôi muốn đến Phật.
Độc Tử lại nói: Nếu Chư Đại Đức đến chỗ Phật xin vì tôi bạch cùng Phật rằng Độc Tử Tỳ Kheo đã tu tập hai pháp chỉ quán được trí vô học, nay báo ơn Phật mà nhập Niết Bàn. Các Tỳ Kheo đem lời này đến bạch cùng Phật.
Phật bảo các Tỳ Kheo: Này các thiện nam tử! Độc Tử đã được quả A La Hán, các ông nên đến cúng dường thân thể của Độc Tử. Các Tỳ Kheo tuân lời Phật trở về cúng dường thi hài của Độc Tử.
Nạp Y Phạm Chí lại lên tiếng hỏi Phật: Thưa Cù Đàm! Như lời Cù Đàm nói trong vô lượng đời làm điều lành điều chẳng lành, đời vị lai trở lại được thân lành thân chẳng lành. Theo ý tôi, lời trên đây không đúng. Vì như Cù Đàm từng nói nhân phiền não mà cảm lấy thân này.
Đã nhân nơi phiền não mà có thận, thời thân có trước hay phiền não có trước?
Nếu phiền não có trước thời ai làm và ở chỗ nào?
Nếu thân có trước thời sao lại nói nhân phiền não mà có thân?
Do đây nên nếu nói phiền não ở trước hay thân ở trước đều không được. Nếu nói đồng một thời cũng chẳng được. Thế là hoặc trước, hoặc sau, hoặc đồng một thời, đều chẳng được. Do đây nên tôi nói tất cả pháp đều có tự tánh chẳng phải từ nơi nhân duyên.
Thưa Cù Đàm! Lại cứng là tánh của địa đại, ướt là tánh của thủy đại, nóng là tánh của hoả đại, động là tánh của phong đại, không chướng ngại là tánh của hư không, tánh của năm đại này chẳng phải từ nhân duyên mà có. Nếu trong thế gian có tánh của một pháp chẳng phải từ nhân duyên mà có, thời tánh của tất cả pháp cũng phải như vậy.
Nếu có một pháp từ nơi nhân duyên, cớ gì tánh của ngũ đại lại chẳng từ nơi nhân duyên?
Thưa Cù Đàm! Chúng sanh mà có thân lành, thân chẳng lành, hoặc được giải thoát đều là tự tánh cả, chẳng phải từ nơi nhân duyên. Nên tôi nói rằng tất cả các pháp do tự tánh mà có, chẳng phải là nhân duyên sanh.
Thưa Cù Đàm! Pháp thế gian có chỗ dùng nhất định, như người thợ nói cây này có thể làm xe cộ, cây này có thể làm cửa, làm ván, làm giừơng, làm ghế.
Lại như thợ kim hoàn làm ra những đồ trang sức: Đội trên trán thờigọi là tràng, đeo dưới cổ thời gọi là chuỗi, đeo trên tay thời gọi là xuyến, đeo nơi ngón tay thời gọi là nhẫn. Vì chỗ dùng nhất định nên gọi là định tánh.
Do đây biết rằng tất cả chúng sanh cũng như vậy: Vì có tánh ngũ đạo nên có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, nhân, thiên. Nếu đã như vậy sao lại nói rằng từ nơi nhân duyên.
Thưa Cù Đàm! Lại tất cả chúng sanh tánh của họ đều khác, nên gọi là tất cả tự tánh.
Như con rùa sanh trên đất cao mà nó tự có thể lặn xuống nước, bò con lúc sanh ra nó tự có thể uống sữa, cá thấy mồi tự nhiên nuốt ăn, rắn độc lúc sanh ra tự nhiên ăn đất, những việc như vậy có ai dạy bảo?
Như gai sanh ra tự nhiên đầu nhọn, lông cánh của loài chim bay tự nhiên có màu sắc riêng khác.
Chúng sanh trong thế gian cũng như vậy: Có khôn lanh, có đần độn, có giàu, có nghèo, có đẹp, có xấu, có người được giải thoát, có kẻ chẳng được. Do đây nên biết trong tất cả pháp đều riêng có tự tánh.
Thưa Cù Đàm! Lại như Ngài từng nói tham, sân, si từ nơi nhân duyên mà sanh, ba món độc này do nơi năm trần làm duyên. Theo ý tôi lời trên đây không đúng.
Vì chúng sanh lúc ngủ xa lìa năm trần mà cũng vẫn sanh tham, sân, si. Lúc ở trong thai cũng vậy. Lúc mới ra khỏi thai chưa phân biệt được năm trần là tốt hay xấu mà cũng sanh lòng tham, sân, si. Các vị Tiên Nhân ở nơi chỗ vắng vẻ.
Không có ngũ trần mà cũng sanh tham, sân, si. Lại cũng có người nhân nơi năm trần mà sanh vô tham, vô sân, vô si. Do đây nên bất tất từ nơi nhân duyên sanh ra tất cả pháp, vì tự tánh nó sẵn như vậy.
Thưa Cù Đàm! Tôi lại thấy trong đời có người căn thân chẳng đầy đủ mà giàu có thế lực lớn, có người thân thể hoàn bị mà nghèo cùng hèn hạ làm tôi làm tớ.
Nếu có nhân duyên cớ sao lại như vậy?
Do đây nên các pháp đều riêng có tự tánh chẳng phải do nhân duyên.
Thưa Cù Đàm! Trong đời những trẻ nhỏ chưa phân biệt được năm trần, chúng nó hoặc cười hoặc khóc. Lúc cười biết nó mừng, lúc khóc biết nó buồn. Do đây nên biết tất cả pháp đều riêng có tự tánh.
Thưa Cù Đàm! Thế pháp có hai: Có và không. Có là hư không, không là sừng thỏ. Hư không vì là có nên chẳng từ nơi nhân duyên, sừng thỏ vì là không nên cũng chẳng từ nơi nhân duyên. Do đây nên biết các pháp có tự tánh chẳng từ nơi nhân duyên.
Phật nói: Này thiện nam tử! Như lời ông nói tất cả pháp cũng như tánh của năm đại. Nghĩa này không đúng.
Vì như trong pháp của ông cho năm đại là thường, duyên cớ gì mà tất cả pháp đều chẳng phải là thường?
Nếu sự vật trong đời là vô thường, tánh của năm đại này duyên cớ gì chẳng phải vô thường. Nếu năm đại là thường thời lẽ ra sự vật trong đời cũng là thường.
Do đây nên ông nói tánh của năm đại vì có tự tánh chẳng từ nơi nhân duyên, khiến tất cả pháp đồng như năm đại, thời không đúng nghĩa.
Này thiện nam tử! Ông nói vì chỗ dùng nhất định nên có tự tánh, nghĩa này không đúng. Vì tất cả đồ dùng đều từ nơi nhân duyên mà được có danh tự, nếu đã từ nhân duyên có danh tự thời cũng từ nhân duyên mà có nghĩa.
Thế nào gọi là từ nhân duyên mà có danh tự?
Như đồ trang sức ở trên trán thời tên là tràng, ở dưới cổ thời tên là chuổi, ở nơi tay thời gọi là xuyến, và như ở nơi xe thời tên là bánh xe, lửa ở nơi cỏ cây thời tên là lửa cỏ lửa cây.
Này thiện nam tử! Cây gỗ lúc mới sanh không có tánh mũi tên và cây lao. Vì từ nơi nhân duyên thợ đẽo làm mũi tên, vì từ nơi nhân duyên thợ đẽo làm cây lao. Do đây chẳng nên nói rằng tất cả pháp là có tự tánh.
Này thiện nam tử! Ông nói như con rùa sanh trên đất mà tánh tự nó có thể lặn xuống nuớc, bò con mới sanh ra tánh nó có thể uống sửa, lời này không đúng.
Vì nó chẳng phải nhân duyên mà rùa tự xuống nước, sao rùa lại chẳng vào lửa?
Đây là vì điều chẳng phải nhân duyên.
Bò con lúc sanh ra chẳng từ nơi nhân duyên mà tánh nó tự có thể mút vú, sao bò con chẳng tự mút sừng?
Đây là đều chẳng phải nhân duyên cả.
Này thiện nam tử! Nếu nói các pháp đều có tự tánh, chẳng cần dạy bảo tập làm, không có thêm lên, lời này không đúng nghĩa. Vì hiện nay thấy có sự dạy bảo, nhân nơi dạy bảo mà được thêm lên. Do đây nên biết rằng không có tự tánh.
Này thiện nam tử! Nếu tất cả pháp có tự tánh riêng, thời hàng Bà La Môn chẳng nên vì được thân thanh tịnh mà giết dê để cúng tế, nếu đã vì thân mà cúng tế thời nên biết rằng không có tự tánh.
Này thiện nam tử! Ngữ pháp của thế gian đại phàm có ba thứ: Muốn làm, lúc làm, làm rồi.
Nếu tất cả pháp đều có tự tánh cớ sao thế gian lại có ba ngữ pháp này?
Đã có ba ngữ pháp này nên biết tất cả pháp đều không có tự tánh.
Này thiện nam tử! Nếu nói các pháp đều có tự tánh, nên biết các pháp đều có định tánh. Nếu có định tánh thời một thứ mía duyên cớ gì làm ra mật mía, đường, rượu, rượu đắng.
Nếu chỉ có một tự tánh duyên cớ gì lại sanh ra nhiều vị như vậy?
Nếu trong một thứ mà sanh ra nhiều thứ thời nên biết rằng các pháp chẳng phải là nhất định riêng có một tự tánh.
Này thiện nam tử! Nếu tất cả pháp có tánh nhất định, cớ gì Thánh Nhân uống nước mía, ăn đường, lúc thành rượu thời chẳng uống, lúc thành rượu đắng lại uống?
Do đây nên biết không có tánh nhất định.
Nếu đã không tánh nhất định tại sao lại chẳng phải từ nhân duyên mà có?
Này thiện nam tử! Ông nói tất cả pháp đều có tự tánh, tại sao ông lại nói thí dụ?
Nếu đã có thí dụ thời nên biết rằng các pháp không có tự tánh. Người trí trong đời đều nói thí dụ, nên biết rằng các pháp không có tự tánh không có tánh nhất định.
Này thiện nam tử! Ông gạn hỏi thân có trước hay phiền não có trước, lời hỏi này không đúng. Vì nếu ta nói thân có trước, ông mới nên vấn nạn. Ông cũng đồng như ta cho thân chẳng có trước cớ gì lại vấn nạn như vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, thân cùng phiền não đều không có trươc sau, là đồng một thời mà có. Dầu đồng một thời nhưng phải nhân nơi phiền não mà được có thân, trọn chẳng nhân nơi thân mà có phiền não.
Nếu trong ý ông cho rằng như đôi mắt của người đồng thời mà có, mắt tả chẳng nhân hữu, mắt hữu chẳng nhân mắt tả, phiền não và thân cũng như vậy. Ý nghĩ này chẳng đúng.
Vì trong đời con mắt ngó thấy ngọn đèn cùng ánh sáng dầu là đồng một thời, nhưng anh sáng cần phải nhân nơi ngọn đèn, chẳng phải nhân nơi ánh sáng mà có ngọn đèn.
Này thiện nam tử! Nếu ý ông cho rằng vì thân chẳng có trước nên biết là không nhân duyên ý này chẳng đúng. Vì nếu cho rằng trước thân không có nhân duyên nên gọi là không, thời ông chẳng nên nói tất cả các pháp không có nhân duyên.
Nếu nói vì chẳng thấy nên chẳng nói, nay thấy cái bình v.v… từ nơi nhân duyên mà có, cớ sao chẳng nói như cái bình, nhân duyên ở trước thân cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Thấy cùng chẳng thấy, tất cả các pháp có ra đều từ nơi nhân duyên, không có tự tánh.
Này thiện nam tử! Nếu nói tất cả pháp đều có tự tánh không do nhân duyên, cớ gì ông lại nói năm đại?
Tánh của năm đại này chính là nhân duyên. Dầu năm đại là nhân duyên như vậy, cũng chẳng nên nói rằng các pháp đều đồng năm đại làm nhân duyên.
Như người đời nói tất cả người xuất gia tinh tấn trì giới, bọn Chiên Đà La cũng phải tinh tấn trì giới như vậy.
Này thiện nam tử! Ông nói năm đại có tánh chắc nhất định. Theo ta thấy thời tánh này chuyển biến chẳng nhất định. Tô, bạch lạp, hồ giao, những thứ này trong pháp của ông gọi là địa, địa này chẳng nhất định, hoặc đồng với nước, hoặc đồng với đất, nên chẳng được nói rằng tự tánh cứng chắc.
Này thiện nam tử! Nhôm, chì, kẽm, đồng, sắt, vàng, bạc, những thứ này trong pháp của ông gọi là hỏa.
Hỏa này có bốn tánh: Lúc chảy là tánh nước, lúc động là tánh gió, lúc nóng là tánh lửa, lúc cứng là tánh đất, sao lại nói rằng nhất định gọi là hỏa tánh.
Này thiện nam tử! Tánh của nước gọi là chảy, nếu lúc nước đông cứng chẳng gọi là địa mà gọi là hỏa tánh, cớ gì lúc sóng động chẳng gọi là phong?
Nếu nổi sóng chẳng gọi là phong, thời lúc đông đặc cũng chẳng nên gọi là hỏa.
Nếu bốn tánh này từ nơi nhân duyên, cớ sao nói rằng tất cả pháp chẳng từ nơi nhân duyên?
Này thiện nam tử! Nếu nói rằng năm căn, vì tánh nó hay thấy, nghe, giác, xúc, nên đều là có tự tánh chẳng từ nơi nhân duyên. Lời này không đúng nghĩa.
Vì tánh của tự tánh là không thể chuyển đổi. Nếu nói tánh của nhãn căn là thấy, lẽ ra phải thường thấy, chẳng nên có lúc thấy có lúc chẳng thấy. Do đây nên biết rằng nhãn căn thấy là có nhân duyên, chẳng phải không nhân duyên.
Này thiện nam tử! Ông nói chẳng phải nhân nơi trần mà có tham cùng giải thoát, lời này không đúng nghĩa. Vì dầu chẳng phải do nơi năm trần mà có tham cùng giải thoát, nhưng vì ác giác quán thời sanh tham dục, vì thiện giác quán thời được giải thoát.
Do nội nhân duyên mà có tham cùng giải thoát, do ngoại nhân duyên mà hai món này được tăng trưởng. Do đây nên lời ông nói tất cả pháp đều riêng có tự tánh, chẳng nhân nơi năm trần sanh tham và giải thoát, là không đúng nghĩa.
Này thiện nam tử! Ông nói người thân thể đầy đủ lại nghèo thiếu chẳng tự do, người tàn tật thời giàu có tự do, nhân đây chứng minh là có tự tánh, chẳng từ nơi nhân duyên. Lời này chẳng đúng.
Này thiện nam tử! Chúng sanh do nơi nghiệp mà có quả báo.
Quả báo này có ba: Hiện báo, sanh báo và hậu báo. Những người nghèo cùng giàu có, lành lặn hay tàn tật, đều do nghiệp riêng khác. Nếu là có tự tánh, người lành lặn lẽ ra phải giàu có, người giàu có lẽ ra phải lành lặn. Nay chẳng như vậy, nên biêt rằng không có tự tánh, mà đều từ nơi nhân duyên.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Hai - Kinh Pháp Cú - Chương Năm - Phẩm Ngu
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tân đầu Lô
Phật Thuyết Kinh Hoại Tướng Kim Cương đà La Ni
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Năm Mươi Hai - Phẩm đại ái đạo Nhập Niết Bàn - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Thoái Bất Thoái
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Hai - Phẩm Người đóng Xe - Phần Một