Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Bốn - Phẩm điểu Dụ

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM MƯỜI BỐN

PHẨM ĐIỂU DỤ  

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử!

Có hai giống chim: Một tên là Ca Lân Đề, hai tên là Oan Ương. Hai giống chim đó lúc bay, lúc ở đều cùng chung chẳng xa rời nhau. Các pháp khổ, vô thường, vô ngã, chẳng rời nhau cũng như vậy.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Thế nào là các pháp khổ vô thường vô ngã, như chim Oan Ương và Ca Lân Đề kia.

Phật nói: Này thiện nam tử! Pháp khổ khác, pháp lạc khác, pháp thường khác, pháp vô thường khác, pháp ngã khác, pháp vô ngã khác. Ví như lúa gạo khác với mè bắp. Mè bắp lại khác với đậu mía. Các thứ ấy từ mầm mộng của nó, nhẫn đến trổ lá, đơm bông đều là vô thường.

Đến lúc thành trái thành hột khô chín, mọi người thọ dụng mới gọi là thường, vì tánh chất chơn thật.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Những vật như vậy nếu là thường thời có đồng với Như Lai chăng?

Phật nói: Này thiện nam tử! Nay ông chẳng nên nói như vậy, vì nói cho rằng Như Lai như núi Tu Di, lúc kiếp hoại núi Tu Di lở sụp, thời Đức Như Lai há lại cũng đồng hư hoại ư!

Này thiện nam tử! Ông chẳng nên giữ lấy những nghĩa ấy. Tất cả các pháp chỉ trừ Phật Tánh và Niết Bàn, không có một pháp nào là thường cả. Nói trái và hột là thường, đó là nói theo thế gian thôi.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Phật nói.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Đúng như vậy.

Này thiện nam tử! Dầu tu tất cả Khế Kinh, các môn thiền định, nhẫn đến chưa nghe pháp Đại Niết Bàn thời đều nói tất cả là vô thường. Nghe Kinh này rồi dầu có phiền não mà hư không phiền não, bèn có thể lợi ích tất cả Cõi Trời, cõi người, vì hiểu rõ thân mình có Phật Tánh, đây gọi là thường.

Này thiện nam tử! Ví như cây Am La bông nó mới trổ gọi là vô thường, đến lúc thành trái có thể ăn dùng mới gọi là thường.

Cũng thế, này thiện nam tử! Dầu tu tất cả Khế Kinh, các môn thiền định lúc chưa nghe Kinh Đại Niết Bàn này, đều cho rằng tất cả pháp đều là vô thường. Lúc nghe Kinh này rồi, dầu có phiền não mà hư không phiền não, bèn có thể lợi ích Cõi Trời, cõi người. Vì hiểu rõ thân mình có Phật Tánh, đây gọi là thường.

Thiện Nam Tử! Ví như lúc nấu, lọc, quặng vàng, là tướng vô thường, lọc xong thành vàng ròng, có nhiều lợi ích bèn gọi rằng thường.

Cũng vậy, này thiện nam tử! Dầu tu tất cả Khế Kinh các môn thiền định, lúc chưa nghe Kinh Đại Niết Bàn này, đều cho rằng tất cả pháp đều là vô thường.

Lúc nghe Kinh này rồi, dầu có phiền não hư không phiền não, bèn có thể lợi ích tất cả Cõi Trời, cõi người, vì hiểu rõ thân mình có Phật Tánh, đây gọi là thường.

Này thiện nam tử! Ví như hột mè lúc chưa bị ép, gọi là vô thường. Lúc ép thành dầu có nhiều lợi ích bèn gọi rằng thường.

Này thiện nam tử! Dầu tu tất cả Khế Kinh, các môn thiền định mà chưa nghe Kinh Đại Niết Bàn này, đều cho rằng tất cả là vô thường. Lúc nghe Kinh này rồi dầu có phiền não, hư không phiền não, đều có thể lợi ích cõi người Cõi Trời vì hiểu rõ thân mình có Phật Tánh đây gọi rằng thường.

Này thiện nam tử! Ví như các dòng nước đều chảy về biển. Cũng vậy, tất cả Khế Kinh, các môn thiền định tam muội đều quy về Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn, vì khéo nói có Phật Tánh.

Này thiện nam tử! Vì thế nên ta nói. Pháp thường khác, pháp vô thường khác. Nhẫn đến vô ngã cũng lại như vậy.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Đức Như Lai đã lìa tên độc ưu bi, luận về có ưu bi gọi là Trời. Đức Như Lai chẳng phải Trời. Có ưu bi gọi là người, Như Lai chẳng phải người, có ưu bi gọi là hai mươi lăm cõi hữu lậu, Đức Như Lai chẳng phải hai lăm cõi hữu lậu.

Vì thế nên Đức Như Lai không có ưu bi, cớ sao nói rằng Đức Như Lai ưu bi?

Này thiện nam tử! Vô Tưởng Thiên gọi là không tưởng. Nếu không tưởng thời không thọ mạng, nếu không thọ mạng, sao lại có ấm, nhập, các giới. Do vì nghĩa đó, nên thân thọ mạng của Vô Tưởng Thiên, không thể nói là có chỗ ở.

Này thiện nam tử! Ví như Thọ Thần nương theo cây mà ở, chẳng thể quyết định nói nương nhánh, nương lóng, nương thân, nương lá. Cũng vậy, dầu không chỗ quyết định, nhưng không thể nói là không có thân thọ mạng của Vô Tưởng Thiên.

Này thiện nam tử! Phật Pháp cũng vậy, rất sâu khó hiểu. Đức Như Lai thiệt không ưu bi khổ não, mà ở nơi hàng chúng sanh khởi lòng đại từ bi, thị hiện có ưu bi, coi hàng chúng sanh như La Hầu La.

Này thiện nam tử! Trong Vô Tưởng Thiên có bao nhiêu thọ mạng, chỉ Phật biết được, chẳng phải người khác có thể biết. Nhẫn đến Trời Phi tưởng phi phi tưởng cũng như vậy.

Này Ca Diếp, Như Lai tánh thanh tịnh không ô nhiễm, dường như hoá thân, chỗ nào mà có ưu bi khổ não. Nếu nói Đức Như Lai không ưu bi đó, thế nào có thể lợi ích chúng sanh, rộng hoằng Phật Pháp. Và nếu nói là không ưu bi, sao lại nói bình đẳng xem chúng sanh như La Hầu La, nếu chẳng bình đẳng xem như La Hầu La, thời lời nói trên là hư vọng.

Này thiện nam tử! Do vì nghĩa đó, Phật chẳng thể nghĩ bàn, pháp chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh Phật Tánh chẳng thể nghĩ bàn, thọ mạng vô tưởng thiên chẳng thể nghĩ bàn. Đức Như Lai có ưu bi cùng không ưu bi, là cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được.

Này thiện nam tử! Thí như nhà, cửa, bụi, đất, không thể trụ giữa hư không, nhưng nếu nói nhà cửa chẳng cần hư không mà có thể trụ, thời không đúng.

Do vì nghĩa đó nên chẳng thể nói nhà trụ nơi hư không, hay chẳng trụ nơi hư không. Kẻ phàm phu dầu nói rằng nhà trụ ở hư không, mà hư không thiệt không chỗ trụ, vì tánh hư không vốn là vô trụ.

Này thiện nam tử! Cũng vậy, không thể nói rằng tâm trụ nơi ấm, giới, nhập cùng chẳng trụ. Thọ mạng vô tưởng thiên cũng như vậy. Đức Như Lai ưu bi cũng như vậy. Nếu không ưu bi, thế nào nói rằng bình đẳng xem chúng sanh như La Hầu La. Nếu cho là có ưu bi, thời sao lại nói Như Lai tánh đồng với hư không.

Này thiện nam tử! Ví như nhà ảo thuật, dầu hoá làm các thứ cung điện sát sanh nuôi dưỡng, bắt trói mở thả nhẫn đến hoá làm các vật báu vàng bạc lưu ly, lùm rừng, cây cối, v.v… đều không có tánh chất chơn thật.

Cũng vậy, Đức Như Lai tùy thuận theo thế gian, thị hiện ưu bi mà không có chơn thật. Đức Như Lai đã chứng nhập nơi Đại Niết Bàn thế nào lại có ưu bi khổ não.

Nếu có kẻ cho rằng Đức Như Lai chứng nhập Niết Bàn là vô thường, nên biết người này thời có ưu bi. Nếu nói Đức Như Lai chẳng nhập Niết Bàn thường trụ chẳng biến đổi, nên biết người này không có ưu bi. Đức Như Lai có ưu bi cùng không ưu bi không ai có thể biết được.

Này thiện nam tử! Ví như người bậc hạ biết được pháp bậc hạ, mà chẳng biết bậc trung, và bậc thượng. Người bậc trung, thời biết pháp bậc trung mà chẳng biết nơi bậc thượng. Người bậc thượng thời biết bậc thượng và biết cả bậc trung bậc hạ.

Cũng thế, hàng Thanh Văn, Duyên Giác chỉ biết ngang chừng bậc của mình. Đức Như Lai thời không phải như vậy, đều biết rõ bậc của mình và cả những bậc khác.

Vì thế nên Đức Như Lai gọi là Đấng Vô Ngại Trí, tùy thuận theo thế gian mà hoá hiện. Kẻ phàm phu nhục nhãn cho là chơn thật, mà muốn biết hết trí vô thượng vô ngại của Như Lai, quan niệm này không đúng.

Đức Như Lai có ưu bi cùng không ưu bi chỉ Phật biết được. Do nhân duyên này, pháp có ngã khác, pháp vô ngã khác. Đây gọi là điều dụ chim Oan Ương, chim La Lân Đề.

Này thiện nam tử! Phật Pháp dường như chim Oan Ương đồng nhau bay đi. Chim Ca Lân Đề và chim Oan Ương này, mùa thạnh hạ nước dâng lên, lựa chọn gò cao làm ổ cho con chúng ở, rồi sau chúng nó mới trở về chốn cũ ưu du an ổn.

Cũng vậy, Đức Như Lai xuất thế giáo hóa vô lượng chúng sanh, làm cho đều được trụ nơi Chánh pháp. Như chim kia lựa gò cao lót ổ cho con chúng nó ở. Đức Như Lai làm cho các chúng sanh đều được giải thoát, chỗ làm đã xong, bèn nhập Đại Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Đây gọi là pháp khổ khác, pháp vui khác. Những hành pháp là khổ. Niết Bàn là vui vi diệu thứ nhất, vì đã phá hoại các hành pháp.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Thế nào chúng sanh chứng đặng Niết Bàn gọi là an lạc đệ nhất?

Này thiện nam tử! Như lời ta đã nói các hành pháp hòa hiệp gọi đó là Lão Tử. Cẩn thận chẳng phóng dật, đây gọi là Cam Lộ. Phóng dật chẳng cẩn thận, đây gọi là Tử Cú. Nếu người chẳng phóng dật, thời đặng chỗ bất tử, như kẻ phóng dật kia, thường đến nơi tử lộ.

Nếu phóng dật gọi là pháp hữu vi. Pháp hưu vi này là khổ đệ nhất. Nếu chẳng phóng dật thời gọi là Niết Bàn. Niết Bàn đó gọi là Cam Lộ an vui đệ nhất.

Nếu xu hướng các hành pháp, thời gọi là chỗ chết thọ khổ đệ nhất. Nếu đến Niết Bàn thời gọi là bất tử thọ vui vi diệu. Nếu chẳng phóng dật, dầu nhóm họp các hành pháp, cũng gọi là thường lạc bất tử, thân chẳng phá hoại.

Thế nào là phóng dật, thế nào là chẳng phóng dật?

Hàng phàm phu chẳng phải Thánh thời gọi là phóng dật, là pháp thường tử. Bậc Thánh xuất thế là chẳng phóng dật không có lão tử, vì chứng nhập nơi Niết Bàn thường lạc đệ nhất. Do nghĩa này nên pháp khổ khác, pháp lạc khác, pháp ngã khác, pháp vô ngã khác.

Như người đứng dưới đất, ngước mặt nhìn lên hư không chẳng thấy dấu chim bay.

Này thiện nam tử! Chúng sanh không có thiên nhãn, ở trong phiền não mà chẳng tự thấy có Như Lai tánh. Cho nên ta nói giáo pháp vô ngã bí mật, vì người không có thiên nhãn, chẳng biết được chơn ngã, mà vọng chấp nơi ngã.

Do các phiền não tạo nghiệp hữu vi, chính đó là vô thường. Cho nên ta nói pháp thường khác, pháp vô thường khác. Người tinh tấn dõng mãnh. Hoặc ở nơi đảnh núi. Đất bằng cùng đồng trống, thường thấy những phàm phu, lên điện đại trí huệ. Đài vô thượng vi diệu. Đã tự trừ ưu khổ. Cũng thấy khổ chúng sanh.

Đức Như Lai dứt hết vô lượng phiền não ở núi trí huệ, thấy hàng chúng sanh thường ở trong vô lượng phiền não.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Ý nghĩa như bài kệ vừa nói không đúng.

Vì người nhập Niết Bàn không ưu không hỷ, thế nào đặng lên điện đài trí huệ, và thế nào ở nơi đảnh núi mà thấy chúng sanh?

Này thiện nam tử! Điện trí huệ đó chính là nói Niết Bàn, người không ưu khổ là nói Đức Như Lai vậy. Người có ưu sầu gọi là phàm phu. Bởi phàm phu ưu khổ, nên Như Lai không ưu khổ.

Đảnh núi Tu Di là nói chánh giải thoát. Người tinh tấn dõng mãnh như núi Tu Di không động chuyển. Đất là nói công hạnh hữu vi.

Hàng phàm phu này, đứng trên đất đây tạo tác những hành nghiệp. Người trí huệ kia thời gọi là Chánh Giác, lìa hữu lậu, thường trụ, nên gọi là Như Lai.

Đức Như Lai thương xót vô lượng chúng sanh thường bị trúng tên độc các cõi, nên nói rằng Đức Như Lai có ưu bi.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Giả sử nếu Như Lai có ưu bi, thời chẳng đặng gọi là bậc Đẳng Chánh Giác.

Này thiện nam tử! Đều có nhân duyên cả. Tùy chỗ nào có chúng sanh đáng được hóa độ, thời Đức Như Lai thị hiện thọ sanh ở trong đó. Dầu thị hiện thọ sanh, nhưng thiệt không có sanh, nên Đức Như Lai gọi là pháp thường trụ. Như chim Oan Ương, chim Ca Lân Đề vậy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần