Phật Thuyêt Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Chín - Phẩm Thánh Hạnh - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM MƯỜI CHÍN
PHẨM THÁNH HẠNH
PHẦN MỘT
Phật bảo Ca Diếp Bồ Diếp:
Đại Bồ Tát phải nên ở nơi Kinh Đại Niết Bàn này chuyên tâm tư duy năm thứ hạnh: Một là Thánh hạnh, hai là Phạm hạnh, ba là Thiên hạnh, bốn là anh nhi hạnh, năm là bệnh hạnh.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thường nên tu tập năm thứ hạnh này. Lại có một hạnh, chính là Như Lai hạnh, cũng chính là Kinh Đại Thừa Đại Niết Bàn.
Đại Bồ Tát tu Thánh hạnh thế nào?
Đại Bồ Tát hoặc từ Thanh Văn, hoặc từ Đức Như Lai đặng nghe Kinh Đại Niết Bàn như vậy, nghe xong sanh lòng tin, tin xong nên suy nghĩ như vậy: Chư Phật Thế Tôn có đạo vô thượng, có chánh pháp lớn, có chánh hạnh cho đại chúng, lại có Kinh Điển Phương Đẳng Đại Thừa, nay ta nên vì ưa thích mong cầu Kinh đại thừa mà bỏ lìa vợ con, quyến thuộc, nhà cửa, vàng bạc, châu báu, chuỗi ngọc tốt đẹp, hương hoa, kỹ nhạc, tôi trai, tớ gái, voi ngựa, xe cộ, trâu dê, gà chó, heo lợn.
Lại nghĩ thế này, ở nhà ràng buộc như lao ngục, do đó mà sanh tất cả phiền não. Xuất gia khoảng khoát như hư không, tất cả pháp lành nhân đây được tăng trưởng. Nếu ở nhà chẳng đặng trọn đời tu phạm hạnh, nay ta phải nên cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo vô thượng.
Lúc Bồ Tát muốn xuất gia như vậy, Thiên Ma Ba Tuần rất lo khổ, nói rằng: Bồ Tát này lại sẽ cùng ta sanh sự chiến tranh lớn.
Nấy thiện nam tử! Bồ Tát này ở nơi chỗ nào lại sẽ cùng người chiến tranh?
Bồ Tát này qua đến Tăng phường nếu thấy Như Lai và hàng đệ tử oai nghi đầy đủ, thân tâm tịch tịnh, lòng liền nhu hòa thanh tịnh mà cầu xuất gia, cạo bỏ râu tóc mặc ba pháp y.
Xuất Gia xong tuân giữ giới cấm, oai nghi chẳng thiếu, cử chỉ an lành không có sai phạm, nhẫn đến tội nhỏ cũng sanh lòng sợ sệt, tâm hộ giới như kim cương.
Này thiện nam tử! Ví như có người đeo trái nổi muốn lội qua biển lớn. Trong biển có quỷ La Sát theo người đó để xin trái nổi.
Người đó nghĩ rằng: Nếu ta cho nó quyết định phải chìm chết.
Nghĩ rồi đáp rằng: Này La Sát, thà ngươi giết ta, chớ ta không thể cho trái nổi được.
La Sát lại nói: Nếu ông chẳng cho hết, thời cho ta phân nửa. Người ấy vẫn không cho. La Sát lại xin một phần ba, không được, lại xin một mãnh bằng bàn tay, nhẫn đến xin chừng bằng hột bụi.
Người này đáp rằng: Nhà ngươi dầu xin rất ít, nhưng hiện nay ta cần phải lội qua biển, chẳng biết đường còn xa hay gần. Nếu ta cho ngươi một ít, trái nổi sẽ xì hơi, làm sao qua được biển lớn, có thể sẽ bị chìm chết giữa đường.
Này thiện nam tử! Bồ Tát hộ trì cấm giới cũng như vậy.
Lúc Bồ Tát Hộ giới, thường có phiền não bảo Bồ Tát rằng: Ông nên tin tôi trọn chẳng dối nhau, chỉ phá bốn giới trọng, giữ gìn những giới khác sẽ được an ổn nhập Niết Bàn.
Lúc đó Bồ Tát nên nghĩ rằng: Thà ta giữ gìn giới cấm mà đọa A tỳ địa ngục, quyết chẳng hủy phạm mà sanh trên Cõi Trời.
Phiền não lại nói: Ông nếu chẳng phá bốn giới trọng, thời nên phá tăng tàng, sẽ được an ổn nhập Niết Bàn. Bồ Tát không bằng lòng.
Phiền não lại bảo: Ông nếu chẳng phạm Tăng tàng, cũng nên phạm tội Thâu Lan Giá, thời đặng an ổn nhập Niết Bàn. Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
Phiền não lại bảo: Ông nếu chẳng thể phạm Thâu Lan Giá, nên phạm Xả Đọa thời nên an ổn nhập Niết Bàn. Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
Phiền não lại bảo: Ông nếu chẳng thể phạm Xả Đọa nên phạm Ba Dật Đề sẽ đặng an ổn nhập Niết Bàn. Bồ Tát cũng chẳng nghe theo.
Phiền não lại bảo: Ông nếu chẳng thể phạm Ba Dật Đề, thời nên phạm Đột Kiết La, do đây được an ổn nhập Niết Bàn.
Bồ Tát vẫn không nghe theo, tự nghĩ rằng: Nay nếu ta phạm tội Đột Kiết La, mà chẳng phát lồ, thời không thể qua khỏi biển sanh tử đến bờ Niết Bàn được.
Bồ Tát đối với tội rất nhỏ trong giới luật, giữ gìn bền chắc, tâm như kim cương.
Bồ Tát đối với bốn giới trọng cùng Đột Kiết La, giữ gìn kính trọng như nhau không khác.
Bồ Tát nếu có thể bền giữ giới luật như vậy, thời là đầy đủ năm chi giới:
Một là đầy đủ giới nghiệp thanh tịnh căn bổn của Bồ Tát.
Hai là những giới thanh tịnh khác, quyến thuộc của giới trước giới sau.
Ba là giới giác quán thanh tịnh, chẳng phải những ác giác.
Bốn là giới niệm thanh tịnh hộ trì chánh niệm.
Năm là giới hồi hướng Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Này thiện nam tử! Bồ Tát đây lại có hai thứ giới: Một là giới thọ thế giáo.
Hai là giới đặng chánh pháp. Bồ Tát nếu thọ giới chánh pháp thời trọn chẳng làm ác. Nếu thọ giới thế giáo, thời bạch tứ Yết Ma, rồi sau mới đặng.
Này thiện nam tử! Lại có hai thứ giới: Một là giới tánh trọng, hai là giới dứt sự cơ hiềm thế gian. Giới tánh trọng tức là bốn giới trọng. Giới dứt cơ hiềm thế gian là chẳng buôn bán, cân thiếu, giạ non, khi dối người, cậy thế lực người để lấy tài vật của kẻ khác, ác tâm trói buộc người, phá hoại sự thành công của người, thắp đèn sáng mà nằm, ruộng nương gieo trồng, gia nghiệp buôn bán.
Chẳng chứa voi ngựa, xe cộ, trâu, dê, đà, lừa, gà, chó, khỉ, vượn, chim công, chim két, chim cộng mạng, cùng chim câu chỉ la, cọp, beo, chó sói, mèo, chồn, heo lợn, và những ác thú khác.
Chẳng chứa đồng nam, đồng nữ, đại nam, đại nữ, tôi tớ, vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não, san hô, bích ngọc, kha bối, các thứ châu báu, đồng cỏ, thiếc nhôm, thau, chì, những thứ chén bát to lớn.
Chẳng chứa áo lông, áo cừu, áo da, tất cả lúa, gạo nếp, mè, bắp, đậu, những đồ đựng món ăn sống, đồ đựng món ăn chín. Thường ăn một bữa, chẳng từng ăn hai lần. Thường đi khất thực và thọ thực trong Chúng Tăng, thường biết vừa đủ.
Chẳng thọ thỉnh riêng, chẳng ăn thịt, chẳng uống rượu, loại ngũ tân tánh nồng đều chẳng ăn, vì thế nên thân Bồ Tát chẳng có hôi hám. Thường được Chư Thiên tất cả người cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán.
Ăn vừa đủ trọn chẳng lãnh thọ của dư. Nhận lấy y phục vừa đủ che thân. Thường dùng ba y, bát, tọa cụ, trọn chẳng xa lìa như hai cánh chim.
Chẳng chứa các thứ củ, cọng, mắt, hột, trái, các loại hột. Chẳng chứa của báu hoặc vàng, hoặc bạc, kho bếp chứa đồ ăn, áo xiêm thêu vẽ, giường rộng, cao lớn giừơng ngà, giường vàng, mùng màn nhiều màu, đều chẳng ngồi nằm.
Chẳng chứa tất cả thứ chiếu, mềm nhuyễn. Chẳng ngồi yên voi, yên ngựa. Chẳng dùng áo xiêm mịn nhuyễn tốt đẹp để trải giường nằm. Trên giường ngủ nghỉ chẳng để hai gối, cũng chẳng nhận chứa gối đỏ tốt đẹp, gối cây lộng chạm.
Trọn chẳng nhìn xem đua voi, đua ngựa, đua xe, diễn binh, cũng chẳng coi xem hoặc nam, hoặc nữ, hoặc trâu, dê, gà, chim trĩ, chim két, đánh đá nhau.
Cũng chẳng cố ý đi xem binh trận. Cũng chẳng cố ý nghe thổi ốc, thổi sừng, tiếng đờn cầm, đờn sắt, đờn tranh, ống địch, không hầu, ca ngâm, các thứ kỹ nhạc, trừ khi cúng dường Phật.
Trọn chẳng xem chẳng làm tất cả những sự chơi đùa cờ bạc. Chẳng coi tướng tay chân mặt mắt, chẳng bói quẻ, xủ quẻ. Chẳng ngước xem hư không tinh tú, trừ khi muốn giải sự buồn ngủ.
Chẳng làm sứ mạng cho nhà Vua. Cũng chẳng đem lời người này truyền đến người kia, lời người kia truyền đến người này. Chẳng dua nịnh tà mạn để nuôi sống.
Chẳng tuyên nói những việc của Vua của quan, của kẻ trộm cướp, việc kiện cáo, việc uống ăn trong nước, trong xứ thất mùa đói khát, những việc khủng bố, những việc đặng mùa an ổn. Đây gọi là giới dứt sự cơ hiềm trong đời của Đại Bồ Tát.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát giữ gìn kỹ những điều giới ngăn chế như vậy đồng như giữ gìn những giới tánh trọng.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thọ trì những giới cấm như vậy rồi lại nguyện rằng:
Thà đem thân này nhảy vào trong hầm lửa, trọn chẳng hủy phạm giới cấm của Chư Phật ba đời mà cùng tất cả người nữ làm điều bất tịnh.
Lại nguyền thà lấy sắt nóng vấn nơi thân, trọn chẳng dám đem thân phá giới để thọ y phục của tín tâm đàn việt.
Lại nguyện thà nuốt hòn sắt cháy đỏ, trọn chẳng dám đem thân phá giới ăn các thực vật của tín tâm đàn việt.
Lại nguyện thà đem thân này nằm trên sắt nóng trọn chẳng đem thân này thọ giừơng chiếu của tín tâm đàn việt.
Lại nguyện thà đem thân này chịu ba trăm mũi mâu đâm, trọn chẳng dám đem thân phá giới thọ thuốc men của tín tâm đàn việt.
Lại nguyện thà đem thân này nhảy vào vạc sắt nóng, chẳng dám đem thân phá giới thọ phòng nhà của tín tâm đàn việt.
Lại nguyện thà dùng chùy sắt đập nát thân này từ đầu đến chân nát như tro bụi, chẳng đem thân phá giới thọ sự cung kính của mọi người.
Lại nguyện thà dùng sắt nóng khoét đôi mắt, chẳng dùng nhiễm tâm nhìn sắc đẹp của người.
Lại nguyện thà dùng dùi sắt đâm thủng lỗ tai, chẳng dùng nhiễm tâm nghe tiếng hay giọng tốt.
Lại nguyện thà dùng dao bén cắt bỏ lỗ mũi, chẳng dùng nhiễm tâm tham ngửi những mùi thơm.
Lại nguyện thà dùng dao bén cắt rách lưỡi mình, chẳng dùng nhiễm tâm tham vị ngon ngọt.
Lại nguyện rằng thà dùng búa bén chặt chém thân thể, chẳng dùng nhiễm tâm tham chạm xúc êm dịu.
Vì những sự trên đây có thể làm cho nhà tu hành đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Đây gọi là Đại Bồ Tát Hộ trì cấm giới.
Đại Bồ Tát Hộ trì những cấm giới như vậy rồi, đều đem bố thí cho tất cả chúng sanh, nguyện cho chúng sanh hộ trì cấm giới, đặng giới thanh tịnh, giới thiện, giới chẳng thiếu, giới chẳng phân tích, giới Đại Thừa, giới bất thối, giới tùy thuận, giới rốt ráo, thành tựu đầy đủ giới Ba La Mật.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát lúc tu trì giới thanh tịnh như vậy liền đặng trụ bậc Sơ Bất Động.
Thế nào gọi là bậc Bất Động?
Bồ Tát trụ trong bậc Bất Động này thời chẳng động, chẳng đọa, chẳng thối, chẳng tán.
Này thiện nam tử! Ví như núi Tu Di, gió trốt gió bão, không thể làm lay động sụp đổ tan nát được. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ trong bậc này, chẳng bị sắc, thinh, hương, vị, xúc, làm động, chẳng đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chẳng lui xuống bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng bị dị kiến tà phong làm tan, mà theo tà mạn để nuôi sống.
Lại bất động là chẳng bị tham dục, sân khuể, ngu si làm động.
Lại bất đọa là chẳng đọa bốn tội trọng.
Lại bất thối là chẳng lui bỏ giới để hoàn tục.
Lại bất tán là chẳng bị người trái nghịch Kinh Đại Thừa làm tan hoại.
Đại Bồ Tát cũng chẳng bị các ma phiền não làm lay động, chẵng bị ma ngũ ấm làm đọa. Nhẫn đến ngồi nơi cội cây Bồ Đề Đạo Tràng dầu có Thiên Ma chẳng thể làm Bồ Tát thối bỏ Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, cũng chẳng bị ma chết làm tan.
Này thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát tu tập Thánh Hạnh.
Thế nào gọi là Thánh Hạnh?
Vì là chổ thật hành của Phật và Bồ Tát nên gọi là Thánh Hạnh.
Do cớ chi Phật và Bồ Tát gọi là Thánh Nhân?
Vì những bậc này có Thánh Pháp, vì thường quán các pháp thể tánh không tịch, do nghĩa này nên gọi là Thánh Nhân. Lại vì có thánh giới, thánh định, thánh huệ, nên gọi là Thánh Nhân.
Lại vì có bảy Thánh tài: Tín, giới, tàm, quí, đa văn, trí huệ, xả ly, nên gọi là Thánh Nhân. Lại vì có bảy Thánh giác nên gọi là Thánh Nhân. Do nghĩa này nên lại gọi là Thánh Hạnh.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thực hành Thánh Hạnh, quán sát thân này từ đầu đến chân trong đó chỉ có tóc, lông, móng, răng, hôi dơ chẳng sạch, da, thịt, gân, xương, tỳ, thận, tâm, phế, gan, mật, bao tử, ruột non, ruột già, tiểu tiện, đại tiện, nước mũi, nước miếng, nước mắt, óc, tũy, mủ, máu, mạch lạc.
Lúc Bồ Tát chuyên tâm quán sát như vậy: Cái gì là ngã, ngã thuộc về cái gì?
Ngã ở chỗ nào?
Cái gì thuộc về ngã?
Lại nghĩ rằng: Xương có phải là ngã chăng?
Hay rời xương là ngã?
Lúc đó Bồ Tát trừ bỏ da thịt chỉ quán sát xương trắng lại suy xét sắc tướng của xương sai khác, là xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh đen, xương như vậy cũng chẳng phải ngã, vì ngã chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng và xanh đen. Lúc Bồ Tát chuyên tâm quán sát như vậy, liền dứt trừ đặng tất cả sắc dục.
Lại nghĩ rằng: Những xương như vậy đều từ nhân duyên mà sanh. Nhờ xương bàn chân để gắn xương mắt cá do xương mắt ca để gắn xương ống quyển, nhân xương ống quyển dùng gắn xương đầu gối, nhân xương đầu gối để gắn xương đùi, do xương đùi kết với xương mông, nhờ xương mông dựng xương sống, nhờ xương sống kết xương sườn, trên xương sống có xương cổ, nhân xương cổ gắn xương hàm, nơi xương hàm cặm răng nanh, trên đó có xương sọ.
Lại nhân xương cổ kết xương vai, nhân xương vai gắn xương cánh tay, đầu xương cánh tay gắn xương bắp tay, do xương bắp tay kết xương bàn tay, nhân xương bàn tay có xương ngón tay. Lúc Bồ Tát quán sát như vậy, tất cả xương trong thân đều chia lìa.
Quán sát như vậy rồi, liền dứt đặng ba thứ dục nhiễm:
Một là sự dục nhiễm về hình mạo.
Hai là sự dục nhiễm về tư thái.
Ba là sự dục nhiễm về chạm xúc mịn màng.
Đại Bồ Tát lúc quán sát xương màu xanh, thấy Cõi đất khắp mười phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng trên, dưới thảy đều màu xanh cả. Lúc quán xương màu vàng, màu đỏ, màu trắng, màu xanh đen cũng như vậy. Lúc Bồ Tát quán sát như trên đây giữa chặn mày liền chiếu ra ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, xanh đen.
Trong mỗi ánh sáng này Bồ Tát thấy có Tượng Phật, liền hỏi: Thân này do nhân duyên bất tịnh hòa hợp chung lại mà thành, sao lại đặng ngồi, nằm, đi, đứng, co duỗi, cúi, ngước xem, nháy, thở, buồn, khóc, vui, cười, trong thân này không chủ tể, ai sai sử có những việc như vậy?
Vừa hỏi xong, Chư Phật trong ánh sáng liền ẩn mất.
Bồ Tát lại suy nghĩ: Hoặc thức tâm là ngã, nên Chư Phật chẳng vì tôi mà nói. Lại quán sát thức tâm này thứ đệ sanh diệt dường như nước chảy cũng chẳng phải là ngã.
Lại suy nghĩ nếu thức tâm chẳng phải là ngã, thời hơi thở ra vào hoặc có thể là ngã chăng?
Lại suy nghĩ: Hơi thở ra vào chỉ là tánh gió, mà tánh gió là tứ đại, trong tứ đại, đại nào là ngã?
Tánh địa đại chẳng phải ngã, tánh thủy, tánh hỏa, tánh phong cũng chẳng phải ngã.
Lại suy nghĩ: Tất cả trong thân này đều không có ngã, chỉ có tâm niệm do nhân duyên hòa hiệp mà hiện ra có những tác dụng. Ví như sức bùa chú, ảo thuật làm ra. Cũng như ống không hầu tùy ý thổi ra tiếng. Thế nên thân này là bất tịnh, nhờ những nhân duyên hòa hiệp chung lại mà thành, thế thì sẽ ở chỗ nào mà sanh tham dục. Lại ở chỗ nào mà sanh giận hờn nếu bị người mắng nhục.
Thân này của ta do ba mươi sáu vật hội hiệp, hôi nhơ bất tịnh, chỗ nào mà có người lãnh thọ sự mắng nhục.
Nếu nghe tiếng mắng, bèn suy nghĩ, do tiếng tăm gì mà thành mắng nhiếc?
Riêng mỗi mỗi tiếng chẳng thể thành mắng nhiếc. Nếu một tiếng chẳng thành, thời nhiều tiếng cũng chẳng thành. Do nghĩa này nên chẳng nên sanh lòng giận hờn. Nếu có người đến đánh, cũng nên suy nghĩ, sự đánh đập này từ đâu mà có.
Lại suy nghĩ: Nhân tay, dao, gậy, cùng với thân của ta nên gọi là đánh. Nay ta cớ sao lại giận hờn nơi người, bèn là thân ta tự chác lấy lỗi này, vì ta thọ thân ngũ ấm. Ví như nhân cái đích thời có mũi tên bắn trúng.
Cũng vậy, do có thân ta, mới có sự đánh. Ta nếu chẳng có nhẫn, thời tâm tán loạn, tâm nếu tán loạn thời mất chánh niệm, nếu mất chánh niệm thời chẳng thể quan sát nghĩa lành cùng chẳng lành. Nếu chẳng thể quan sát nghĩa lành cùng chẳng lành thời phạm việc ác.
Đã phạm việc ác tất phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Lúc Bồ Tát quán sát như vậy rồi, thời đặng tứ niệm xứ. Đặng tứ niệm xứ rồi thời đặng trụ nơi trong bậc kham nhẫn. Đại Bồ Tát trụ nơi bậc này thời có thể kham nhẫn những sự tham dục, sân khuể, ngu si.
Cũng có thể kham nhẫn những sự lạnh, nóng, đói khát, muỗi mòng, rận, rệp, gió dữ, đụng chạm, thô cứng, các thứ tật dịch, chửi rủa mắng nhiếc, đánh đập khổ sở tất cả những sự khổ não nơi thân, nơi tâm đều có thể nhẫn. Vì thế nên gọi là trụ bậc kham nhẫn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Bồ Tát chưa trụ đặng bậc bất động, lúc trì tịnh giới, có nhân duyên gì đặng phá giới chăng?
Này thiện nam tử! Bồ Tát chưa đặng trụ bậc bất động, vì có nhân duyên thời có thể đặng phá giới.
Bạch Thế Tôn! Nhân duyên như thế nào?
Này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát biết rằng do nhân duyên phá giới, thời có thể làm cho người ưa thích thọ trì Kinh Điển Đại Thừa, lại có thể làm cho người đọc tụng thông thuộc, biên chép quyển Kinh, giảng thuyết rộng ra, chẳng thối chuyển nơi vô thượng Chánh Giác. Vì cớ như vậy nên đặng phá giới.
Lúc đó Bồ Tát nên nghĩ rằng: Ta thà chịu tội đọa nơi A Tỳ Địa Ngục, một kiếp hoặc dưới một kiếp, cần phải làm cho người như vậy chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Giác. Do nhân duyên này Bồ Tát đặng phá tịnh giới.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nhiếp thủ hộ trì người như vậy, làm cho chẳng thối chuyển tâm Bồ Đề, quyết không vì duyên cớ ấy phá giới mà bị đọa A Tỳ.
Phật khen Văn Thù Sư Lợi: Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói.
Ta nhớ thuở xưa, nơi Diêm Phù Đề này, ta làm Đại Quốc Vương, tên là Tiên Dư. Nhà Vua mến ưa kính trọng Kinh Điển Đại Thừa, tâm Vua thuần thiện, không có tật ác, tật đố, san lẫn, miệng Vua thường nói lời dịu dàng, lời lành, thân Vua thường nhiếp hộ kẻ nghèo cùng cô độc. Bố thí, tinh tấn, không ngừng nghỉ.
Thuở đó không có Phật ra Đời, cũng không Thanh Văn, Duyên Giác. Nhà Vua ưa thích Kinh Điển Đại Thừa Phương Đẳng, trong mười hai năm phụng thờ Bà La Môn, cung cấp những đồ cần dùng. Qua khỏi mười hai năm, nhà Vua bảo Bà La Môn các Ngài nay phải phát tâm vô thượng bồ đề.
Bà La Môn đáp: Tâu Đại Vương tánh Bồ Đề là không chỗ có, Kinh Điển đại thừa cũng như vậy. Sao Đại Vương muốn cho người cùng vật đồng như hư không. Nhà Vua lúc đó tâm tôn trọng đại thừa, nghe Bà La Môn hủy báng Phương Đẳng đại thừa, bèn giết Bà La Môn.
Này thiện nam tử! Do nhân duyên trên đây, từ đó trở đi, ta chẳng bị đọa địa ngục.
Này thiện nam tử! Ủng hộ nhiếp trì Kinh Điển Đại Thừa, bèn có vô lượng thế lực như vậy.
Phật lại bảo Ca Diếp Bồ Tát:
Có Thánh Hạnh là Tứ Thánh Đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là tướng bức bách. Tập là tướng có thể sanh trưởng. Diệt là tướng tịch diệt. Đạo là tướng Đại Thừa. Lại khổ là hiện tướng. Tập là chuyển tướng. Diệt là trừ tướng. Đạo là năng trừ tướng.
Lại khổ có ba tướng: Tướng khổ khổ, tướng hành khổ, tướng hoại khổ. Tập là hai mươi lăm cõi. Diệt là diệt dứt hai mươi lăm cõi. Đạo là tu tập giới, định, huệ.
Này thiện nam tử!
Pháp hữu lậu có hai thứ: Có nhân, có quả.
Pháp vô lậu cũng có hai thứ: Có nhân, có quả.
Quả hữu lậu thời gọi là khổ. Nhân hữu lậu thời gọi là tập. Quả vô lậu thời gọi là diệt.
Nhôn vô lậu thời gọi là đạo.
Này thiện nam tử!
Có tám tướng gọi là khổ: Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm thạnh khổ. Có thể sanh ra tám thứ khổ như vậy gọi đó là tập. Nơi không có tám thứ khổ như vậy đây gọi là diệt. Mười trí lực, bốn vô sở úy ba niệm xứ, đại bi, đây gọi là đạo.
Sanh là tướng sanh ra có năm: Một là mới sanh ra, hai là đến rốt sau, ba là tăng trưởng, bốn là xuất thai, năm là chủng loại sanh.
Lão có hai thứ: Một là niệm niệm lão, hai là chung thân lão.
Lại có hai: Một là tăng Trưởng Lão, hai là diệt hoại ão.
Bệnh là nói Tứ Đại chẳng điều thích lẫn nhau cũng có hai: Một là thân bệnh, hai là tâm bệnh.
Thân bệnh có năm: Một là nhân nơi nước, hai là nhân nơi gió, bà là nhân nơi nhiệt, bốn là tạp bệnh, năm là khách bệnh.
Khách bệnh có bốn: Một là chẳng phải phận sự gắng gỗ làm, hai là vì quên lầm mà té ngã, ba là dao gậy ngói đá, bốn là quỷ mị dựa.
Tâm bệnh cũng có bốn: Một là hớn hở, hai là sợ sệt, ba là lo rầu, bốn là ngu si.
Này thiện nam tử! Thân bệnh, tâm bệnh phàm có ba thứ: Một là nghiệp báo, hai là xa lìa chẳng đặng ác đối, ba là thời tiết thay đổi. Sanh ra các thứ nhân duyên danh tự thọ bệnh sai khác như vậy. Nhân duyên là những bệnh phong v.v…, danh tự là buồn nôn, phổi sưng, hơi lên, ho hen, tim nhảy, chảy kiết.
Thọ sai khác là: Nhức đầu, đau mắt, đau tay, đau chân, v.v…, đây gọi là bệnh. Tử là bỏ thân đã thọ.
Bỏ thân cũng có hai: Một là căn mạng hết mà chết, hai là do duyên ngoài là chất mạng hết mà chết.
Mạng hết mà chết có ba: Một là mạng hết chẳng phải phước hết, hai là phước hết chẳng phải mạng hết, ba là phước mạng đều hết.
Duyên ngoài chết cũng có ba: Một là chẳng phải phần tự hại mà chết, hai là bị kẻ khác hại chết, ba là do mình và kẻ khác mà chết.
Lại có ba thứ chết: Một là phóng dật mà chết, hai là phá giới mà chết, ba là mạng căn hư hoại mà chết.
Những gì gọi là phóng dật mà chết?
Nếu có hủy báng Đại Thừa Phương Đẳng Bát Nhã Ba La Mật, đây gọi là phóng dật mà chết.
Những gì gọi là phá giới mà chết?
Hủy phạm giới cấm của Chư Phật ba đời, đây gọi là phá giới mà chết.
Những gì gọi là mạng căn hư hoại mà chết?
Bỏ thân ngũ ấm, đây gọi là mạng căn hư hoại mà chết. Do đây nên gọi rằng chết là rất khổ.
Những gì gọi là ái biệt ly khổ?
Những vật mến yêu bị hư hoại lìa tan.
Vật mến yêu hư hoại lìa tan đó cũng có hai thứ: Một là ngũ ấm trong loài người hư hoại, hai là ngũ ấm trong Cõi Trời hư hoại. Ngũ ấm mến yêu trong cõi người Cõi Trời phân biệt tính đếm có vô lượng thứ. Đây gọi là ái biệt ly khổ.
Những gì gọi oán tằng hội khổ?
Tức là chẳng yêu thương mà hội họp cùng nhau, chẳng yêu thương hội họp này cũng có ba: Địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Ba ác thú như vậy phân biệt tính đếm có vô lượng thứ. Đây gọi là oán tằng hội khổ.
Những gì gọi là cầu bất đắc khổ?
Cũng có hai thứ: Một là chỗ trông mong được mà cầu chẳng được, hai là tốn nhiều công lực mà chẳng đặng kết quả. Đây gọi là cầu bất đắc khổ.
Những gì gọi là ngũ ấm thạnh khổ?
Chính là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tằng hội khổ, cầu bất đắc khổ. Đây gọi là ngũ ấm thạnh khổ.
Này thiện nam tử! Sanh làm cội gốc có ra lão khổ nhẫn đến ngũ ấm thạnh khổ, bảy khổ như vậy.
Này thiện nam tử! Luận về sự già suy, chẳng phải tất cả đều có. Phật cùng Chư Thiên một bề quyết định không, trong loài người thời chẳng nhất định, hoặc có hoặc không.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba