Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ - Phẩm Hai - Phẩm Bồ Tát Biến Hóa Nghi Quỹ - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thiên Tức Tai, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG

BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI

CĂN BẢN NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống

Việt dịch: Cư Sĩ Huyền Thanh  

PHẨM HAI

PHẨM BỒ TÁT BIẾN HÓA NGHI QUỸ  

TẬP MỘT  

Chân Ngôn Nghi Quỹ đã nói vì hữu tình với hàng A Tu La Asura sống trên bờ dưới nước, khiến cho đủ mọi loại công đức.

Chân Ngôn là:

Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam, ma bát la để hạ đa xá sa nẵng nam. Đát nễ dã tha: Án, xá câu nẵng, ma hạ xá câu nẵng, bát nạp ma, vĩ đát đát, bác cật xoa, tát lýphộc bán nẵng, nga nẵng xá ca, khư khư, khư hứ khư hứ, tam ma dã ma nỗ sa ma la, hồng, để sắt tra, mạo tha tát đát mạo, ba dã để.

Namaḥ samanta buddhānāṃ apratihataśāsanānāṃ.

Tadyathā: OṃŚakuna mahā śakuna padma vitata pakṣa sarvapannaganāśaka kha kha khāhi khāhi samayam anusmara, hūṃ tiṣṭha bodhisatvo jñāpayati.

Bản Phạn ghi thêm SVĀHĀ vào câu cuối.

Chân Ngôn Hạnh này lại dùng Đại Ấn đầy đủ tinh tiến, hay hóa độ kẻ khó hóa độ, hay điều phục kẻ khó điều phục, người bị bệnh khổ mau được bình an, tiêu mọi thuốc độc, phá các việc ác, chẳng sinh nghi ngờ.

Lại nữa sức Chân Ngôn Hạnh của Bồ Tát hay tùy theo chúng sinh giáo hóa khắp cả, như Kinh Ca Lâu La Garuḍa nói Bồ Tát thương xót hữu tình, tùy theo các chúng sinh hoặc hiện làm chim Ca Lâu La Garuḍa: Kim Sí Điểu hình dung rộng lớn, giáng phục Rồng độc khiến cho nó sinh điều tốt lành.

Chân Ngôn Nghi Quỹ này nói: Như Lai Chân Ngôn Tộc với nhóm Liên Hoa Tộc có nhiều phương biến hóa, lợi ích hữu tình mà không có oán ghét, ví như bà mẹ hiền nuôi dưỡng nhiều đứa con, ban ân thương yêu bình đẳng. Bồ Tát hóa độ các chúng sinh cũng lại như vậy. Ta thực hành Chân Ngôn Hạnh mà Chư Phật quá khứ đã nói, nay Ta cũng nói, Diệu Cát Tường lại nói.

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử quán sát tất cả đại chúng trên Trời Tịnh Quang với việc chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có, rồi nhập vào Tam Ma Địa tên là Chiếu kiến Nhất Thiết Tam Muội Avalokya sarva samaya sañcodanīṃ samādhi an trụ Pháp Hành mà Bồ Tát đã hành, khiến cho các chúng sinh đều được lợi lạc.

Vào Tam Ma Địa này xong, ở Trời Tịnh Quang hóa ra Ma Ni Bảo Tạng Chủng Chủng Trang Nghiêm Mạn Noa La Vicitra maṇi ratna vyūhālaṅkāra maṇḍala chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có. Giả sử tất cả Thanh Văn Śrāvaka, Bích Chi Phật Pratyekabuddha cho đến Thập Địa Đắc Tự Tại Bồ Tát Daśa bhūmi pratiṣṭhiteśvabodhisatva cũng chẳng thể vẽ được Mạn Noa La này, huống chi là người Phàm Phu.

Diệu Cát Tường Đồng Tử có khả năng thông đạt Pháp Hạnh bình đẳng của Man Na La tối thượng này. Chỉ có Chư Phật Thế Tôn, tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật mới có khả năng y theo Pháp phụng hành, được nhận Quán Đỉnh Abhiṣeka.

Sức uy đức chẳng thể nghĩ bàn của Diệu Cát Tường Đồng Tử thực hành Tam Ma Địa tối thượng của Phật Bồ Tát, nhập vào Tâm Ý của Tam Ma Địa Samādhi thời đời này chỉ tự mình biết rõ, các Tâm Ý khác làm sao có thể so lường, khởi công khéo léo của Hữu Tướng mà tô vẽ được sao?!

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử bảo các Chúng rằng: Thánh Giả! Hãy nghe cho kỹ! Nhập vào Đại Mạn Noa La Tam Muội Mahā maṇḍala samādhi thì Như Lai, Bồ Tát còn chẳng thể vi phạm. Huống chi là các chúng sinh Satva, Thánh Sāśrava với Phi Thánh Anāśrava khác.

Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử bảo Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ rằng: Này Phật Tử Jina putra! Lý Tâm Pháp của Tam Muội lìa khỏi tình người. Nay vì Đức Như Lai nhập diệt mà phương tiện nói, khiến cho các chúng sinh được vào tất cả Chân Ngôn Hạnh của Thế Giới với Xuất thế gian.

Bấy giờ, Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: Này Phật Tử! Nếu sau khi Đức Thế Tôn vào Niết Bàn thì hãy vì các chúng sinh nói Mạn Noa La Chân Ngôn Hạnh Maṇḍala mantra caryā khiến cho họ tùy vui tu học, đều được thành tựu Phật Đạo vô thượng.

Nếu có chúng sinh ngu si chẳng y theo Pháp Hành, vi phạm Tam Muội thì Chân Ngôn chẳng thành. Tuy có Phước lớn, Phạm Hạnh mà chẳng y theo Nghi sādhana này thì chẳng được Tam Muội, Chân Ngôn chẳng thành.

Nếu chẳng y theo Pháp. Giả sử Đế Thích Indra khéo nói phương tiện thì cũng chẳng được Tam Muội, Chân Ngôn chẳng thành, huống chi là người ở trên mặt đất địa cư.

Nếu khéo biết Giáo Pháp, y theo Pháp hành sự, khi niệm tụng thời quyết định thành tựu Chân Ngôn Tam Muội của thế gian và Xuất thế gian. Người được vào Giáo Pháp Mạn Noa La của Diệu Cát Tường Đồng Tử thời tất cả chỗ mong cầu, không có gì chẳng viên mãn.

Khi ấy, Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ Đại Bồ Tát thỉnh Diệu Cát Tường Bồ Tát vì các hữu tình, lược nói Mạn Noa La Nghi Quỹ. Như vậy thỉnh xong.

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử nhân vào đấy tuyên nói. Phàm dựng lập Mạn Noa La Maṇḍala: Đàn Trường nên ở ba Trường Nguyệt tháng năm, tháng năm, tháng Giêng, bên trong tháng này cần được kỳ Bạch Nguyệt Śukla pakṣa.

Mười năm ngày đầu của tháng đừng dùng kỳ Hắc Nguyệt Kṛṣṇa pakṣa: mười năm ngày sau của tháng. Ở trong kỳ Bạch Nguyệt hoặc ngày mồng một, hoặc ngày mười năm, lại nên chọn lựa ngày tốt có Tinh Diệu cát tường thì mới được khởi Đàn.

Nếu ở ngoài ba Trường Nguyệt, muốn dựng Mạn Noa La, khi được ngày cát tường tốt thì sáng sớm có thể dùng. Lại nên chọn lựa đất thanh tịnh, hoặc gần thành quách, hoặc gần bờ đi ra sông biển, hoặc hướng vào trong biển, hoặc A Xà Lê Acārya từ chỗ ở của mình đều có thể khởi Đàn.

Nếu gần thành quách thì hướng theo Đông Bắc, chẳng gần chẳng xa liền có thể dùng.

Đất đã dùng không có các loại: Cát, đá, gạch ngói, đá vụn, tro, than, đất phân, đầu lâu… đều nên loại bỏ khiến cho trong sạch. A Xà Lên an trụ ở đây, hoặc bảy ngày cho đến nửa tháng, y theo Pháp nghiêm trì đất của Đàn.

Sau đó dùng nước Ngũ Tịnh không có loài trùng, hương Bạch Đàn Candana, hương Long Não Karpūra, hương Cung Câu Ma Kuṅkuma hòa bên trong nước, dùng Ngũ Kế Đại Ấn, niệm Diệm Mạn Đức Ca Đại Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn tám ngàn biến, gia trì vào nước rưới vảy làm sạch mười phương, bốn góc, trên, dưới… đều khiến cho thanh tịnh.

Ở đất của Đàn, bốn phương đều rộng mười sáu khuỷu tay, hoặc hai mươi khủy tay, hoặc tám khuỷu tay.

Phần này chia ra làm ba nhóm: Thượng, trung, hạ… nhất thiết trí trí nói Đàn Pháp này.

Nếu cầu cho địa vị của quốc quân được an ninh thái bình thì vị Vua ấy có thể dùng Thượng Đàn.

Nếu cầu tăng ích Phước Thọ thì có thể dùng Trung Đàn.

Nếu cầu tất cả việc cát tường thì có thể dùng Hạ Đàn rộng tám khuỷu tay.

Lại nữa nếu làm riêng việc mong cầu thì tô bôi Mạn Noa La ấy. Ở đất của Đàn, đào sâu xuống hai khuỷu tay.

Nếu có loại: Than, tro, gạch nung, đá, sỏi, xương, tóc, rắn, trùng… thì chẳng thể khởi Đàn, nên tìm riêng đất tốt mà làm. Chẳng kể là nơi trong núi, nơi hoang vắng, bờ sông… đều không có chướng ngại, cần phải Chính Ý, Tâm tưởng kín đáo nhỏ nhiệm quán sát đất thanh tịnh không có loài trùng.

Đất đã được đào lên, lại nên chọn riêng đất sạch cực tốt đem lấp xuống cho đầy, rồi nện cho thật bằng phẳng. Đất đã được lấp này cần phải dùng nước Ngũ Tịnh lúc trước hòa chung lại rồi lấp xuống. Tùy theo ý có thể làm Mạn Noa La của ba hạng thượng, trung, hạ.

Lại ở bốn phương của Đàn đều đóng một cây cọc gỗ Khư Nỉ La Khadirakilaka, niệm Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn bảy biến, gia trì vào cây cọc.

Lại dùng sợi dây ngũ sắc, cũng tụng Phẫn Nô Minh Vương Chân Ngôn bảy biến rồi đem sợi dây ngũ sắc này ở bốn phương của Mạn Noa La, ràng quanh Đàn Tướng này.

Trung Vị vị trí chính giữa của bốn phương gọi là Nội Viện. Khiến A Xà Lê ngồi ở Trung Vị ấy, niệm Căn Bản Chân Ngôn Mūla mantra tám ngàn biến, kết Ngũ Kế Đại Ấn đồng dùng.

Tụng Chân Ngôn đầy đủ xong, A Xà Lê ấy đi ra bên ngoài Đàn, xoay nhiễu quanh Mạn Noa La một vòng xong, hướng mặt về phương Đông ngồi xổm trên cái chiếu cỏ, chí Tâm đỉnh lễ tất cả Chư Phật với các Bồ Tát. Dùng sợi dây ngũ sắc lúc trước cột buộc trên cây cọc ở bốn phương, nhiễu quang Đàn một vòng để làm sợi dây giới hạn. Tinh thục việc Pháp, trì tụng một đêm.

Mạn Noa La A Xà Lê Maṇḍala acārya ấy giữ bền chắc Thanh Trai trai giới trong sạch, y theo Căn Bản Nghi Quỹ, cử động dùng Tâm khiến cho người tu Đại Thừa Hạnh Mahā yāna caryā y theo Pháp trì giới một đêm, đồng thực hành việc Pháp. Lại dùng phấn năm màu, niệm Lục Tự Tâm Chân Ngôn gia trì vào phấn ấy, rồi an trí trong Mạn Noa La.

Lại ở bốn mặt bên ngoài Đàn, trang nghiêm an trí phướng phan, trồng cây Ba Tiêu cây chuối rồi khiến nhóm trống, nhạc, loa, bạt cái nạo bạt đồng loạt phát ra tiếng. Đây là Cát Tường Âm. Nhóm âm nhạc dừng xong, lại vì bốn Chúng lược nói Pháp Yếu.

Lại ở bốn phương của Mạn Noa La đều đọc Kinh Điển Đại Thừa, phương Nam đọc Kinh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Bhagavatī prajñāpāramitā, phương Tây đọc Kinh Nguyệt Quang Tam Ma Địa Ārya candra pradīpa samādhi, phương Bắc đọc Kinh Thánh Hoa Nghiêm Ārya gaṇḍavyūha, phương Đông đọc Kinh Thánh Kim Quang Minh Ārya suvarṇa prabhāsottama.

Như vậy Pháp Sư đọc bốn Bản Kinh Pháp này xong. A Xà Lê từ Mạn Noa La đứng dậy.

Đem các thứ hương: Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma, Bạch Sắc Śvetasugandha…hòa chung với hoa tốt nhất rồi để một chỗ, niệm Căn Bản Chân Ngôn gia trì rồi đem hương hoa này rải tán tất cả chỗ của Mạn Noa La.

A Xà Lê ra bên ngoài, bảy ngày ăn bơ Dadhi. Lại dùng hai người đến ba người là người có đủ phước đức lớn, phát tâm Bồ Đề Bodhi citta, trì giới đồng vào trong Mạn Noa La, niệm Căn Bản Chân Ngôn tự làm ủng hộ. Đem phấn năm màu tô bôi trên Đàn này, bột phấn đã dùng là báu có năm màu của nhóm vàng, bạc… nhỏ mịn như bụi, hoặc năm màu của nhóm đồng cũng được.

Nếu là quốc vương với người có phước đức lớn dựng làm Đàn này thì bên trên cầu Vô Thượng Bồ Đề, quyết định được thành. Nếu có người tùy vui thì cũng được Bồ Đề Bodhi huống chi là việc cát tường riêng khác, không có gì chẳng thành tựu.

Như sau khi Đức Thích Ca Như Lai diệt độ, thời chúng sinh bạc phước ở đời ác làm sao có thể thấy nghe pháp của Đại phước đức Đàn Nghi như vậy !…

Bấy giờ, Đại Quang Diệu Cát Tường Đồng Tử vì các chúng sinh nghèo khổ lược nói Mạn Noa La Nghi Quỹ Mantra sādhane. Dùng gạo tẻ Śali làm bột, nhỏ mịn như miến, rồi nhuộm thành năm màu Varṇa: Xanh Harita, hay Nīla, vàng Pīta, đỏ Rakta, trắng Śukla, đen Kṛṣṇa.

Mạn Noa La A Xà Lê tự kết Ngũ Kế Đại Ấn, niệm Căn Bản Chân Ngôn gia trì vào phấn ấy, sau đó A Xà Lê ở phương Đông Nam của Mạn Noa La y theo Pháp làm một cái Hỏa Đàn Agni kuṇḍa.

Đàn ấy rộng hai khuỷu tay, sâu một khuỷu tay, chung quanh giáp vòng như tướng lá hoa sen. Dùng cây Ba Lá Xá Palāśa kāṣṭha với gỗ của cây Cát Tường Quả Śrīphala kāṣṭha làm củi ướt, có thể dài một xích 1/3 m đều được thấm ướt mới có thể dùng.

Lại đem ba loại bơ Dadhi, Lạc Ghṛta: Váng sữa đặc, Mật Madhu thấm ướt hai đầu cây củi, kết Dã Sắt Trí Ấn, niệm Căn Bản Chân Ngôn, thỉnh triệu Hỏa Thiên Agni deva. Lại niệm Nhất Tự Tâm Căn Bản Chân Ngôn một trăm lẻ tám biến, liền làm Hộ Ma tức là thiêu đốt củi lúc trước. Tiếp theo cùng với người vẽ giỏi, đồng thực hành việc pháp.

Mạn Noa La A Xà Lê tự đội mão lên đầu, Nội Tâm, chí Ý tưởng tượng Chư Phật Bồ Tát như đối trước mắt. Lại niệm Hiến Hương Chân Ngôn, chắp tay cung kính, đỉnh lễ Chư Phật Bồ Tát, đỉnh lễ Diệu Cát Tường Đồng Tử xong, đem phấn năm màu lúc trước cho người thợ vẽ kia, cùng nhau tô vẽ mặt Đàn.

Trước tiên, ở khoảng giữa của Mạn Noa La vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Śākya muṇi ngồi trên Tòa Sư Tử báu Ratna siṃhāsana đầy đủ các Tướng như ở trên Trời Tịnh Quang, làm tướng Thuyết Pháp.

Mạn Noa La A Xà Lê với người vẽ đồng sự, lại niệm Căn Bản Chân Ngôn, tự làm ủng hộ. Tiếp theo ban cho tất cả Quỷ Thần, xuất ra Sinh Thực thức ăn chưa nấu chín ấy ở bên ngoài Đàn: Bốn phương, trên, dưới…rải thí thức ăn uống khiến cho họ no đủ.

A Xà Lê lại nên tắm rửa thân thể, mặc áo sạch mới, ở gần Hỏa Đàn làm Pháp ủng hộ. Lại dùng bơ, hương Cung Câu Ma kuṅkuma hòa làm một ngàn cái Đoàn Thực thức ăn dùng tay bốc.

A Xà Lê ngồi trên cỏ Cát Tường Kuśa sạch, niệm Căn Bản Chân Ngôn, dùng Đoàn Thực lúc trước để làm Hộ Ma Homa. Lại dùng hạt cải trắng, lại tụng Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn một trăm lẻ tám biến gia trì vào hạt cải rồi đựng chung trong một vật khí sạch. Hoặc có các hình tướng ác chẳng lành với mọi loại chướng nạn, chỉ dùng hạt cải trắng lúc trước làm Hộ Ma bảy biến thì các ác tự diệt.

Nếu có người gây chướng nạn, dùng hạt cải làm Hộ Ma năm biến thì người gây chướng nạn kia chẳng thành mà tự hàng phục, trải qua một sát na lại bị Quỷ Mỵ bám dính. Giả sử Thiên Đế Thích gây chướng nạn ấy cũng vẫn chẳng lâu thì được vô thường, huống chi là người Manuṣya với hàng Phi Nhân Amanuṣya có tâm ác gây chướng nạn ấy.

Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương này phá hoại việc gây ra sự sợ hãi như vậy.

Lại người trì tụng ấy ngồi trên tòa cỏ Cát Tường, tụng Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương xong, ở hai bên tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẽ hai vị Bích Chi Phật ngồi kiết già trên tòa hoa sen Padmāsana.

Lại ở phía trước bàn chân của Đức Phật ấy, vẽ hai vị Đại Thanh Văn, làm tướng nghe pháp.

Bên phải vị Thanh Văn ấy vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát Avalokiteśvara tất cả trang nghiêm như trăng Thu đầy đặn, ngồi trên tòa hoa sen, tay trái cầm hoa sen, tay phải tác tướng thí nguyện Varada.

Bên phải Quán Tự Tại ấy, vẽ Bạch Y Tôn Thắng Paṇḍara vāsinī tay trái cầm hoa sen, tay phải đỉnh lễ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, cũng ngồi trên hoa sen, đầu đội mão báu, trật áo hở vai phải.

Như vậy lại vẽ Đa La Bồ Tát Tārā, Bộ Lý Câu Chi Bồ Tát Bhṛkuṭī mỗi mỗi đều như Pháp mà ngồi.

Ở bên trên vị Bồ Tát ấy, lại vẽ Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Prajñāpāramitā, Phật Nhãn Phật Đỉnh Tôn Thắng Vương Tathāgata locanā Uṣṇīṣa rājā với vẽ mười sáu vị Đại Bồ Tát là: Phổ Hiền Bồ Tát Samanta bhadra, Địa Tạng Bồ Tát Kṣiti garbha, Hư Không Tạng Bồ Tát Gagana gañja, Trừ Cái Chướng Bồ Tát Sarva nīvaraṇa viṣkambhī, Diệt Tội Bồ Tát Apāyajaha, Từ Thị Bồ Tát Maitreya tay cầm cây phất trắng chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.

Thanh Tịnh Hành Bồ Tát Vimala gati, Vô Cấu Tràng Bồ Tát Vimala ketu, Diệu Tài Bồ Tát Sudhana, Nguyệt Quang Bồ Tát Candra prabha, Vô Cấu Xưng Bồ Tát Vimala kīrti, Trừ  Nhất Thiết Bệnh Bồ Tát Sarva vyādhi cikitsaka, Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát Sarva dharmīśvara rāja, thế gian Hành Bồ Tát Loka gati, Đại Tuệ Bồ Tát Mahā mati, Trì Tuệ Bồ Tát Patidhara. Mười sáu vị Đại Bồ Tát như vậy có sắc tướng trang nghiêm, khắp đều viên mãn.

Lại ở hướng bên trên, lại vẽ Phẫn Nộ Đại Minh Vương Krodha vidya rāja với các Minh Vương Vidyārājñī:Minh Phi, Liên Hoa Bộ Tộc Abja kūle y theo Pháp kết Ấn, tùy theo chỗ an trụ.

Ở bốn mặt của Đàn đều có vị trí Không Nhàn khoảng không chỉ vẽ hoa sen, thỉnh triệu Hiền Thánh an bài ở đây.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần