Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bảo Vân - Phẩm Bảy - Phẩm Bảo Tích - Tập Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Mạn Đà La Tiên, Đời Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI THỪA BẢO VÂN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Mạn Đà La Tiên, Đời Lương
PHẨM BẢY
PHẨM BẢO TÍCH
TẬP BỐN
Sao gọi là Sa Môn cầu danh?
Đó là Sa Môn ngụy tạo tướng mạo, ra vẻ trì giới, muốn để người khác nghe biết ta là đa văn. Một mình ở nơi thanh vắng, không có một chút ồn ào, muốn để người biết ta trụ nơi A Lan Nhã. Thiểu dục, tri túc, tú pháp xa lìa muốn để người biết ta tu hạnh chán bỏ. Tu hạnh như vậy chẳng vì tịch tĩnh, chẳng vì đắc đạo, chẳng vì Sa Môn, chẳng vì quả Niết Bàn tối thắng vi diệu.
Ấy gọi là Sa Môn cầu danh.
Thiện nam! Sao gọi là Sa Môn hành hạnh chân thật?
Đó là Sa Môn đối với mạng sống tự thân còn chẳng sinh tham, huống nữa là danh tiếng, lợi dưỡng… nghe pháp không, vô tướng, vô nguyện, lòng rất là vui mừng, thuận đạt chân như, hành theo lời nói, chẳng vì Niết Bàn mà tu phạm hạnh, lẽ nào ưa thích ba cõi là nơi chốn không an lạc.
Đối với pháp không còn chẳng thấp, huống nữa là ngã kiến, chúng sinh, nhân kiến. Y chỉ nơi pháp mà cầu giải thoát, cầu giải thoát là không giong ruổi theo bên ngoài. Thấy tất cả pháp xưa nay vô cấu, rốt ráo thanh tịnh, chỉ nương tự thân, không nương người khác. Đối với pháp thân Phật còn chẳng chấp trước, huống nữa là sắc thân.
Dùng pháp không xa lìa mà không thấy pháp, huống nữa là tham chấp nơi âm thanh, lời nói?
Dùng pháp vô vi còn không thấy tăng, huống nữa là thấy có chúng hòa hợp. Ở trong các pháp không có chỗ đoạn trừ, không có chỗ tu hành, không sinh sự sinh tử, cũng không thủ đắc Niết Bàn, biết tất cả pháp xưa nay vốn tịch diệt, không thấy có chứng đắc, cũng không cầu giải thoát. Đó là Sa Môn hành hạnh chân thật.
Như vậy, thiện nam! Các ông nên học hạnh chân thật của Sa Môn, chớ chấp vào danh tự không, không có lợi ích.
Thiện nam! Ví như người bần cùng, hạ tiện cưỡng xưng là phú quý, ý ông nghĩ sao?
Người bần tiện này xứng danh ấy chăng?
Bồ Tát đáp: Không, thưa Đức Thế Tôn!
Phật bảo: Cũng vậy, này Bảo Tích!
Tuy là Sa Môn mà không có đức hạnh chân thật của Sa Môn thì khác nào người nghe mang danh tự hư giả.
Thiện nam! Ví như có người trôi nổi giữa biển, khát nước mà chết.
Cũng vậy, này Bảo Tích! Có các Sa Môn tuy đọc tụng nhiều các loại Kinh Điển mà chẳng dứt cơn khát tham, sân, si. Ở trong nước giáo pháp mà chết khát phiền não do đọa vào các nẻo ác.
Thiện nam! Ví như Y Vương chứa nhiều các loại thuốc, tự thân mang bệnh mà chẳng thể trị. Người đa văn có bệnh phiền não cũng lại như vậy, tuy có đa văn nhưng chẳng dứt phiền não, làm sao có thể tự lợi?
Thiện nam! Ví như có người uống thuốc quý của Vua, nhưng chẳng tiết chế nên bị thuốc não hại. Người đa văn có bệnh phiền não cũng lại như vậy, được pháp dược tốt mà chẳng thể tu hành, tự hại tuệ mạng.
Thiện nam! Ví như ngọc báu ma ni rớt trong chỗ bất tịnh, chưa dùng liền được. Cũng vậy, người đa văn tham đắm nơi lợi dưỡng thì chưa có thể làm lợi ích tất cả hàng trời, người.
Thiện nam! Ví như người chết tham đắm nơi vàng, bạc, anh lạc… người đa văn phá giới, mặc pháp phục, thọ sự cúng dường của người, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như con của trưởng giả, hoặc nam hoặc nữ, tự tắm rửa sạch, cắt bỏ móng tay, móng chân, xông ướp nước hương, mặc y phục báu mới sạch, tô điểm trang nghiêm thân đầu bằng tràng hoa.
Cũng vậy, này Bảo Tích! Người đã văn thọ trì giới tịnh, mặc pháp phục, nhận sự cúng dường của người, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Có bốn hạng người phá giới, tựa như khéo trì giới luật.
Những gì là bốn?
Đó là: Hạng người giả như trì giới đầy đủ, trong tâm thường kinh sợ tội lớn, nhỏ. Nghe giới pháp đều khéo thực hành, thân khẩu ý nghiệp đều minh bạch, chánh mạng thanh khiết. Người trì giới như vậy luận bàn giảng nói ngã. Đây là hạng phá giới thứ nhất, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Lại có hạng người trì tụng giới luật, làm theo lời nói, nhưng không diệt trừ thân kiến. Đây là hạng phá giới thứ hai, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Lại có hạng người trì giới đầy đủ, chấp dưỡng nơi tướng chúng sinh mà hành tâm từ, nghe tất cả pháp xưa nay không sinh mà tâm rất kinh sợ. Đây là hạng phá giới thứ ba, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Lại có hạng người tu mười hai hạnh Đầu Đà đầy đủ mà thấy có tướng của tội. Đây là hạng phá giới thứ tư, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Trì giới là vô ngã, vô ngã sở, không tạo tác, phi không tác, phi không tác. Không có pháp làm, cũng không có mười làm, vô hành, vô phi hành. Vô thành, vô bất thành. Vô thủ, vô xả, không thể lấy, không thể bỏ. Không có chúng sinh. Cũng không có tên chúng sinh.
Không có tâm, cũng không có tên tâm. Không có thế gian, không gì là không thế gian. Không y chỉ, không gì là không y chỉ. Không vì trì giới mà tự cao ngạo, cũng không khinh chê người phá giới, cũng không nhớ tưởng phân biệt giới này.
Này Bồ Tát Bảo Tích, đây gọi là Thánh giới, giới vượt sinh tử, giới không chỗ nương, không chấp trước nơi ba cõi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa này, nên nói kệ:
Người trì giới thanh tịnh
Không cấu, không sở hữu
Trì giới không kiêu mạn
Cũng không nương tựa đâu.
Trì giới không ngu si
Cũng không bị ràng buộc
Trì giới, không trần uế
Cũng không có sai trái.
Trì giới, tâm hiền thiện
Thường vắng lặng rốt ráo
Lìa xa tất cả sự
Nhớ tưởng các phân biệt.
Giải thoát các loạn niệm
Là tịnh trì giới Phật
Không tham tiếc thân mạng
Không dựng tạo các hữu.
Tu tập các chánh hạnh
An trụ nơi chánh đạo
Đó gọi là Phật Pháp
Trì giới tịnh chắc thật.
Trì giới không nhiễm đời
Cũng không nương pháp đời
Sớm được trí tuệ sáng
Không si ám, sở hữu.
Không ngã, không tưởng kia
Đã biết, thấy các tướng
Đó gọi là Phật Pháp
Chân thật tịnh trì giới.
Không có bờ đây, kia
Cũng không có khoảng giữa
Ở trong không bỉ, thử
Cũng không có chấp trước.
Không trói, không các lậu
Cũng không có khi dối
Đó gọi là Phật Pháp
Chân thật tịnh trì giới.
Tâm không đắm danh sắc
Không sinh ngã, ngã sở
Đó gọi là an trụ
Chân thật tịnh trì giới.
Tuy trì các giới hạnh
Nhưng tâm không tự cao
Cũng không cho là trên
Vượt giới cầu trí tuệ.
Đó gọi là chân thật
Trì giới tướng thanh tịnh
Không cho giới là trên
Cũng không quy tam muội.
Vượt hai việc này rồi
Tu tập nơi trí tuệ
Vắng lặng không sở hữu
Là các tánh Thánh Hiền.
Người giới tịnh như vậy
Được Chư Phật khen ngợi
Tâm thoát khỏi thân kiến
Trừ diệt ngã, ngã sở.
Tin hiểu nơi Chư Phật
Thực hành pháp không tịch
Trì Thánh giới như vậy
Thì không ai sánh bằng.
Nương giới được tam muội
Tam muội năng tu tuệ
Nhờ nương vào tu tuệ
Sớm được trí thanh tịnh.
Người đã được trí tịnh
Là đủ giới thanh tịnh.
Khi Đức Phật giảng nói pháp này, có năm trăm Sa Môn không còn thọ nhận nơi các pháp, tâm được giải thoát. Ba vạn hai ngàn người lìa xa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Năm trăm Sa Môn được thiền định, nghe pháp sâu xa này tâm không tin hiểu, không thể thông đạt, tâm không hội nhập, nên từ tòa đứng dậy trở về núi rừng.
Khi ấy, Đại Ca Diếp đến trước Đức Phật, thưa: Bạch Thế Tôn! Vì sao năm trăm Sa Môn này được thiền định, lại không thể tin hiểu, vào sâu nơi pháp, nên đứng dậy bỏ đi?
Phật dạy Đại Ca Diếp: Các Sa Môn này vì tăng thượng mạn, nghe giới tướng vô lưu thanh tịnh này không thể tin hiểu, thông đạt, thấu rõ. Phật đã nói kệ, nghĩa ấy sâu xa, nhưng họ chẳng thể lãnh hội.
Vì sao?
Vì bồ đề của Chư Phật là rất thâm diệu. Nếu không có phước đức, chưa trồng thiện căn, chạy theo bạn ác thì chẳng thể tin thọ pháp sâu xa này một cách rốt ráo.
Này trưởng giả Đại Ca Diếp! Vào thời Phật Ca Diếp trong quá khứ, năm trăm người này là đệ tử của ngoại đạo, đi đến chỗ Phật muốn tìm lỗi Phật, nhưng nghe Phật giảng nói pháp liền được ít tín tâm, tự nghĩ: Phật này hiếm có, thích nói pháp diệu. Nhân duyên là do tâm thiện, phước đức này nên sau khi mạng chúng sinh lên Cõi Trời Đạo Lợi.
Từ cõi ấy, họ bị đọa xuống Cõi Diêm Phù Đề, ở nơi pháp ta mà được xuất gia. Các Sa Môn này nhiễm sâu các kiến chấp nên nghe pháp thâm diệu không thể tin hiểu, không thể tùy thuận, không thể thông đạt. Nhưng nhờ lực của nhân duyên là được nghe pháp sâu xa, nên có được lợi ích lớn, không vì đời này mà bị đọa vào cõi ác.
Hõ sẽ dùng thân mà được nhập Niết Bàn.
Đức Thế Tôn liền bảo Trưởng Lão Tu Bồ Đề: Ông đến chỗ các Sa Môn kia giảng nói chỉ dẫn để họ được giải thoát.
Trưởng Lão Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Những Sa Môn ấy ở chỗ Phật giảng nói hãy còn chẳng tin thọ, há có thể tin thọ lời con nói chăng?
Khi ấy, Như Lai liền hóa làm hai vị đi theo đường của năm trăm Sa Môn kia.
Các Sa Môn thấy hai người ấy mới hỏi rằng: Hai ông đi đâu?
Đáp: Chúng tôi muốn đến chốn A Lan Nhã, sống nơi núi rừng thanh vắng, tu tập thiền định.
Vì sao?
Vì Phật nói pháp thù thắng nhưng tôi không thể tin hiểu.
Các Sa Môn nói: Thưa Trưởng Lão! Chúng tôi nghe Phật nói pháp cũng không thể hiểu được, nên muốn vào núi tu thiền định.
Hóa Sa Môn đáp: Chúng ta nên lìa tâm trái nghịch, tự cao, phải nên tìm cầu lãnh hội nghĩa lý Phật nói.
Vì sao?
Vì không cao ngạo, không tranh chấp là pháp của Sa Môn.
Các Sa Môn ấy hỏi: Thưa Trưởng Lão! Như Niết Bàn mà Phật nói là không, không sở hữu, vậy ai đạt được Niết Bàn?
Ở trong thân này lại có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tác giả, sĩ phu, Phật Già La… đạt được Niết Bàn chăng?
Hóa Sa Môn lại hỏi: Pháp gì gọi là Niết Bàn?
Các Sa Môn đáp: Thưa Trưởng Lão! Tham, sân, si diệt tận nên gọi là Niết Bàn.
Hóa Sa Môn nói: Này các Trưởng Lão! Tham, sân, si có thể diệt tận, vậy nay chúng ở nơi nào?
Các Sa Môn nói: Tham, sân, si này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa. Nếu không nhớ tưởng, phân biệt hư vọng thì tham, sân, si này sẽ không sinh.
Hóa Sa Môn nói: Này các Trưởng Lão! Nếu vậy thì không nên phân biệt.
Này các Trưởng Lão! Nếu không phân biệt thì không tham, sân, si… há sinh được chăng?
Tham, sân, si này nếu không sinh thì gọi là tịch tĩnh, không là sinh tử, không là Niết Bàn.
Này các Trưởng Lão! Nhờ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến nên không sinh không diệt.
Này các Trưởng Lão! Pháp bình đẳng như vậy hiển bày rồi về Niết Bàn. Các pháp bình đẳng này tánh tướng là không tịch, chẳng lấy, chẳng bỏ.
Này các Trưởng Lão! Nên diệt cái tướng tưởng Niết Bàn ấy. Nếu nơi vô tướng mà tác tưởng hiểu biết, hoặc nơi có tướng mà tác tưởng hiểu biết, nơi có không này mà khởi tưởng thì gọi là trói buộc.
Này các trưỡng lão! Phải nên nhập vào định Diệt thọ tưởng. Nếu một khi nhập được định Diệt thọ tưởng thì việc làm đã xong, đã viên mãn, không còn việc gì nữa.
Khi hóa Sa Môn giảng nói lời ấy, năm trăm Sa Môn không còn thọ nhận các pháp, tâm được giải thoát. Được giải thoát rồi, họ đi đến chỗ Phật, đầu mặt tác lễ, lui ra ngồi một chỗ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba