Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Bốn - Phẩm Như Lai Chẳng Thể Nghĩ Bàn - Tập Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA BỒ TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM BỐN

PHẨM NHƯ LAI CHẲNG THỂ NGHĨ BÀN  

TẬP SÁU  

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Tất cả chúng sinh ở thế gian

Đều nương vào tất cả cảnh giới

Cảnh giới hướng đến cũng như vậy

Phật Vô Thượng Tôn đều biết rõ

Phước, không phước và hạnh bất động

Các giới xuất ly nghĩa như vậy

Hướng đến các giới tâm an trụ

Niết Bàn không động tâm vắng lặng

Tất cả nhãn giới và Sắc Giới

Nhãn thức giới kia cũng như vậy

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý giới

Như Lai đều biết rõ như thật

Đối pháp giới ấy biết rõ rồi

Ý thức giới kia cũng như vậy

Biết rõ các pháp trong ngoài không

Là đại trí lực của Năng Nhân

Địa giới, thủy giới và hỏa giới

Cùng với phong giới cũng như vậy

Biết rõ các giới cũng như thế

Cũng như hư không không khác gì

Tất cả Dục Giới và Sắc Giới

Vô Sắc Giới kia cũng như vậy

Như Lai biết rõ hết tất cả

Và sự phân biệt nó khởi lên

Nhưng hư không kia không biên tế

Các giới vô biên cũng như vậy

Tuy Phật biết hết khắp tất cả

Không khởi ngã tâm hay hiểu rõ

Biết rõ các giới không sở sinh

Cũng biết các giới không sở diệt

Các giới như vậy tâm vắng lặng

Trượng Phu vô thượng đều biết rõ

Như hư không không có biên tế

Trí Phật vô biên cũng như thế

Dùng trí vô ngại đều biết rõ

Mỗi mỗi tin hiểu đều giải thoát

Biết tâm khởi lên tin hiểu rồi

Vô số chúng sinh đều điều phục

Như Lai viên thành lực thứ tư

Phật tử nên sinh tin thanh tịnh.

Này Xá Lợi Tử! Đây là trí lực thứ tư của Như Lai, nói rộng cho đến không có pháp nào ngang bằng với Như Lai.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Sao gọi là trí lực thắng liệt căn của Như Lai?

Nghĩa là các chúng sinh có căn tánh hoặc thù thắng, hoặc thấp kém, Như Lai đều biết rõ một cách như thật.

Sao gọi là năng tri?

Nghĩa là hạ căn, trung căn và lợi căn, cũng lại biết hết các căn thù thắng. Cho đến tích tập, phân biệt từ tham mà khởi lên các căn tánh nghiệp. Từ sân mà khởi lên các căn tánh nghiệp. Từ si mà khởi lên các căn tánh nghiệp, Như Lai đều biết rõ như thật.

Như vậy, do phân biệt các nghiệp hư vọng mà khởi lên tham, sân, si tất cả Như Lai đều biết rõ như thật. Như vậy, phân biệt các căn từ tham, sân, si ít mà khởi lên, Như Lai đều biết như thật. Phân biệt các căn từ tham, sân, si nhiều mà khởi lên, Như Lai cũng đều biết như thật.

Phân biệt các căn từ tham, sân, si, chấp trước mà khởi lên, Như Lai cũng biết như thật. Hoặc thiện nhân căn tánh, hoặc không thiện nhân căn tánh, hoặc bất động nhân can tánh, hoặc xuất ly nhân căn tánh, Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Như Lai biết hết tất cả nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ý căn của chúng sinh. Nữ căn, nam căn, mạng căn, khổ căn, lạc căn, ưu căn, hỷ căn, xả căn, tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn, hai mươi hai căn như vậy, Như Lai đều biết rõ như thật.

Lại nữa, trong các căn, hoặc nhãn căn nhân thông với phần vị nhĩ căn, không phải tỷ căn, thiệt căn, thân căn, Như Lai đều biết như thật. Hoặc nhĩ căn nhân thông phần vị tỷ căn. Hoặc tỷ căn nhân thông phần vị thiệt căn. Hoặc thiệt căn nhân thông phần vị thân căn. Hoặc thân căn nhân thông phần vị nhãn căn. Như vậy, các căn nhân và phần vị Như Lai đều biết như thật.

Nếu các chúng sinh có căn tánh bố thí, tu trì giới hạnh, Như Lai đều biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp bố thí. Nếu các chúng sinh có căn tánh trì giới, tu hạnh bố thí, Như Lai biết rõ căn tánh người ấy, liền vì nói pháp trì giới.

Nếu các chúng sinh có căn tánh nhẫn nhục, tu hạnh tinh tấn, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp nhẫn nhục. Nếu các chúng sinh có căn tánh tinh tấn, tu hạnh nhẫn nhục, Như Lai biết rõ căn tánh của nười ấy, liền vì nói pháp tinh tấn.

Nếu các chúng sinh có căn tánh thiền định, tu hạnh tuệ thù thắng, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy liền noi pháp thiền định. Nếu các chúng sinh có căn tánh tuệ thù thắng, tu hạnh thiền định, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp tuệ thù thắng.

Tóm lại, cho đến các pháp bồ đề cũng nói như vậy. Nếu các chung sinh đầy đủ căn tánh Thanh Văn, tu hạnh Duyên Giác thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Thanh Văn thừa.

Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Duyên Giác, tu hạnh Thanh Văn thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Duyên Giác thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh đại thừa, tu hạnh Thanh Văn, Duyên Giác thừa, Như Lai biết rõ như thật, liền vì nói pháp đại thừa.

Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh Tối thượng thừa, tu hạnh đại thừa, Như Lai biết rõ căn tánh của người ấy, liền vì nói pháp Tối thượng thừa. Nếu các chúng sinh đầy đủ căn tánh không kham nhậm phi pháp, Như Lai biết rõ người ấy không thể kham nhậm phi pháp, liền khuyên bỏ pháp đó đi. Nếu các chúng sinh có thể kham nhậm, là bậc pháp khí, Như Lai liền vì nói chánh pháp.

Này Xá Lợi Tử! Như Lai đối với tất cả chúng sinh, hoặc quán sát các căn mà biết rõ, hoặc khong quán sát các căn cũng biết rõ. Hoặc người có căn xuất ly, Như Lai đều biết rõ, người không có căn xuất ly, Như Lai cũng biết rõ. Sau khi biết rõ như vậy rồi, tùy theo các chúng sinh có những căn tánh gì, hoặc các hanh pháp hoặc ý thích nhân, hoặc duyên, hoặc chướng, hoặc chỗ rốt ráo, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Các căn tánh hướng đến bờ kia

Biết tánh chúng sinh và ý vui

Các căn thế gian đều biết hết

Nhân Trung Sư Tử nói chánh pháp

Quán khắp hạ, trung và thượng căn

Trí chưa từng có chuyển khắp cả

Biết các chúng sinh căn giải thoát

Trí nói thắng pháp khiến hiểu rõ

Quyết định phiền não nó khởi lên

Tùy căn chúng sinh nhiều hay ít

Biết rõ các căn tánh như vậy

Tùy thuận tuyên nói pháp trí hành

Nếu các chúng sinh đủ thiện căn

Hoặc người đủ căn tánh bất thiện

Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn

Căn tánh khổ, vui, buồn, hỷ xả

Và căn tín, tấn, niệm, định, tuệ

Nam, nữ mạng căn cũng như vậy

Vì họ tuyên nói tín căn ấy

Các căn khác thắng nghĩa cũng vậy

Căn tánh sở hành và các tướng

Tùy ý chúng sinh mà cảm hóa

Ứng căn tuyên nói pháp thù thắng

Trí khéo biết rõ các pháp khổ

Thanh Văn các căn khó giải thoát

Chỉ Phật Bồ Đề mới xuất ly

Thanh Văn không biết nhân Phật trí

Vì nói bồ đề lực tối thắng.

Này Xá Lợi Tử! Đây là trí lực thứ năm của Như Lai, cho đến rộng nói thì không có pháp nào bằng Như Lai.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Sao gọi là trí lực chí xứ đạo của Như Lai?

Nghĩa là, con đường hướng đến Biến nhất thiết xứ của Như Lai, Như Lai đều biết như thật.

Sao gọi là năng tri?

Nếu các chúng sinh giới trụ chánh định tụ, trụ bất định tụ, trụ tà định tụ, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ. Nếu chúng sinh giới trụ chánh định tụ, đã có nhân lực và nghiệp đời trước, lợi căn thông minh sáng suốt, Như Lai biết chúng sinh ấy có khả năng kham nhậm, là pháp khí giải thoát, tùy theo nhân lực đời xưa mà vì nói pháp.

Nếu chúng sinh giới trụ Bất định tụ, do duyên lực đã thành thục, tùy theo căn cơ thích ứng của chúng sinh đó, Như Lai nói pháp dạy dỗ liền được giải thoát. Nếu duyên lực chưa thành thục, thì không được giải thoát, Như Lai đợi đến khi nhân duyên hòa hợp, gặp Phật ra đời, liền vì nói pháp. Chúng sinh ấy nghe Phật nói pháp rồi, siêng năng thực hành kiên cố mới được quả thù thắng.

Nếu chúng sinh giới trụ tà định tụ, không tu chánh nghiệp, căn tánh tối tăm, không phải là chánh khí, Như Lai không nói pháp cho người ấy, vì người ấy không có khả năng kham nhậm, không phải là pháp khí giải thoát, Như Lai biết rồi liền bỏ. Thế nên, các Bồ Tát phải siêng năng tu hành mặc giáp tinh tấn.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử!

Như Lai biết rõ ba thứ tham: Có thứ tham khởi lên tướng thiện, lại có loại tham khởi lên tướng biên tế, lại có thứ tham khởi lên nhân đời trước.

Như Lai biết rõ ba loại sân: Có loai sân khởi lên tướng não hại, lại có loại sân khởi lên ý tham không biết đủ, lại có loại sân khởi lên tập nghiệp đời trước.

Như Lai biết rõ ba thứ si: Có thứ si khởi lên nhân vô minh, lại có thứ si khởi lên nhân hữu thân kiến, lại có thứ si khởi lên nhân nghi hoặc, mỗi mỗi Như Lai đều biết rõ như thật.

Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Như Lai đối với các khổ, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vì lợi căn. Hoặc đối với khổ dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì căn nhu nhuyến.

Lại nữa, Như Lai đối với các thứ vui, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vị lợi căn. Hoặc đối với các thứ vui dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì căn nhu nhuyễn. Lại đối với chỗ chậm rãi, dùng thần thông chậm rãi để biết, là vì chướng đạo.

Đối với chỗ chậm rãi dùng thần thông nhanh chóng để biết khiến được khinh an. Đối với điều nhanh chóng, dùng thần thông chậm rãi để biết, vì không có rốt ráo an ổn. Đối với điều nhanh chóng, dùng thần thông nhanh chóng để biết, là vì không có sai khác.

Lại có chỗ được sức quyết trạch không phải sức tu tập. Hoặc có sức tu tập viên mãn, nhưng không phai sức quyết trạch. Cả sức tu tập và sức quyết trạch đều được viên mãn. Sức tu tập và sức quyết trạch cả hai không viên mãn, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, có chỗ ý vui đầy đủ, hạnh không đầy đủ, có hạnh đầy đủ, ý vui không đầy đủ. Có ý vui đầy đủ, hạnh cũng đầy đủ, ý vui không đầy đủ, hạnh cũng không đầy đủ, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Lại nữa, có chỗ thân nghiệp thanh tịnh mà ngữ nghiệp và ý nghiệp không thanh tịnh. Lại có chỗ ý nghiệp thanh tịnh mà thân, ngữ không thanh tịnh. Lại có chỗ thân, ngữ, ý nghiệp đều không thanh tịnh. Lại nữa, có chỗ thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh, mỗi mỗi Như Lai đều biết như thật.

Này Xá Lợi Tử! Tất cả chúng sinh đối với tất cả chỗ, tạo ra nghiệp nhân, hoặc động, hoặc tịnh, Như Lai dùng trí vô ngại tùy theo chúng sinh mà hóa độ.

Này Xá Lợi Tử! Như vậy, trí lực chí xứ đạo của Như Lai không có biên tế, ngang bằng với hư không. Các Bồ Tát trụ tín nghe rồi phát lòng tin thanh tịnh, vượt lên sự phân biệt, lìa mọi nghi hoặc, sau lại biểu hiện thân tướng vui, tâm vui và sinh ý tưởng hy hữu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, liền lập lại bằng kệ rằng:

Phật khéo biết rõ lực chí xứ

Biết rõ nhân các chánh định tụ

Và các chúng sinh Bất định tụ

Tướng thành thục kia đều biết rõ

Ba loại tham Phật đều biết cả

Sân, si ba loại Phật cũng biết

Ba thứ phiền não có sai khác

Phật đều biết rõ nhân duyên xứ

Biết rõ khổ xứ, tánh lợi căn

Thần thông chậm rãi căn nhu nhuyến

Lại xứ lợi căn cũng như vậy

Phật đều biết rõ tướng chậm rãi

Có chỗ chậm rãi sức chậm rãi

Hoặc chỗ chậm rãi tánh lợi căn

Hoặc chậm, hoặc nhanh căn chậm chạp

Thần thông nhanh chóng tướng không khác

Có sức quyết trạch không sức tu

Hoặc có sức tu không quyết trạch

Sức quyết trạch, tu đều đầy đủ

Cả hai đều không, đều biết rõ

Có chỗ ý vui hoặc đầy đủ

Nhưng mà hành nghiệp chưa đầy đủ

Đều có, đều không cả hai thứ

Phật quán sát khắp đều biết rõ

Có chỗ thân nghiệp được thanh tịnh

Không phải ngữ, ý tịnh cũng vậy

Hoặc lại ngữ, thân đều thanh tịnh

Ý không thanh tịnh nghĩa cũng thế

Hoặc là ý nghiệp được thanh tịnh

Ngữ, thân không thanh tịnh cũng thế.

Hoặc lại ngữ, ý đều thanh tịnh

Thân không thanh tịnh nghĩa cũng vậy

Thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh

Phật quán sát khắp đều biết rõ

Như vậy thành tựu môn vắng lặng

Thắng trí lực thứ sáu của Phật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần