Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Một - Phẩm Trưởng Giả Hiền Hộ - Tập Bốn

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA BỒ TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM MỘT

PHẨM TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ  

TẬP BỐN  

Này các trưởng giả! Vì lý do đó cho nên biết, tất cả các pháp đều từ hư vọng phân biệt mà khởi, trói buộc vào duyên không có sức lực, từ duyên mà chuyển. Nếu duyên có thì các pháp mới có. Nếu duyên pháp không thì các pháp cũng không.

Nhưng trong tất cả pháp có ra đó, không có một pháp nhỏ nào có thể biết, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận. Lại không có một pháp riêng nào là đoạn là thường.

Vì thế các ông nên biết, nếu có phân biệt hư vọng, tác ý không đúng lý thì các pháp có ra. Còn nếu không phân biệt hư vọng, tác ý đúng lý thì các pháp không có. Nếu tác ý không đúng lý thì vô minh kia có thể hiện diện. Nếu tác ý đúng lý thì vô minh không hiện hữu. Do vô minh có cho nên hành có. Vô minh không cho nên hành không.

Các hành có, cho nên thức có. Các hành không cho nên thức không. Thức có cho nên danh sắc có. Thức không cho nên danh sắc không. Danh sắc có, cho nên lục xứ có. Danh sắc không cho nên lục xứ không. Lục xứ có, cho nên xúc có. Lục xứ không, cho nên xúc không.

Xúc pháp có, cho nên thọ có. Xúc pháp không, cho nên thọ không. Thọ có, cho nên ái có. Thọ không cho nên ái không. Ái có, cho nên thủ co. Ái không cho nên thủ không. Thủ có, cho nên hữu có. Thủ không, cho nên hữu không. Hữu có, cho nên sinh có, hữu không, cho nên sinh không. Sinh có, cho nên lão tử có. Sinh không cho nên lão tử không.

Như vậy cái gì gọi là già?

Đó là trạng thái suy biến, ho hen, lụm khụm, đi đứng phải chống gậy, các căn thay đổi, mạng sống giảm dần, hành tướng khô gầy. Đó gọi là già.

Sao gọi là chết?

Đến lúc chết, các uẩn tan hoại, thân này chôn vào lòng đất, các bộ phận chi tiết bị biến đổi rả ra. Đó gọi là chết. Đây là tướng già. Đây là tướng chết, gọi chung là già chết. Pháp sinh có, cho nên già chết có. Pháp sinh không cho nên già chết cũng không.

Sao gọi là sinh?

Khi thai nhi được sinh ra khỏi bào thai, năm uẩn hòa hợp, lục xứ đầy đủ, các chi tiết đồng phần lần lượt hợp tập.

Đó gọi là sinh. Pháp hữu có, cho nên pháp sinh có. Pháp hữu không, cho nên pháp sinh không.

Sao gọi là hữu?

Ấy là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu. Đó gọi là hữu. Pháp thủ có, cho nên pháp hữu có. Pháp thủ không, cho nên pháp hữu không.

Sao gọi là thủ?

Là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ. Đó gọi là thủ. Pháp ái có, cho nên thủ có. Pháp ái không, cho nên pháp thủ không.

Sao gọi là ái?

Là sắc ái, tham ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Đó gọi là ái. Pháp thọ có, cho nên ái có. Pháp thọ không, cho nên pháp ái cũng không.

Sao gọi là thọ?

Là nhãn xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Nhĩ xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Tỷ xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Thiệt xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Thân xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Ý xúc làm duyên, sinh ra các thọ. Đó gọi là thọ. Pháp xúc có cho nên pháp thọ có. Pháp xúc không, cho nên pháp thọ cũng không.

Sao gọi là xúc?

Là nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc. Đó gọi là xúc. Lục xứ có, cho nên xúc có. Lục xứ không cho nên xúc pháp cũng không.

Sao gọi là lục xứ?

Là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ. Đó gọi là lục xứ. Danh sắc có, cho nên lục xứ có. Danh sắc không cho nên lục xứ không.

Sao gọi là danh sắc?

Là thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi là danh. Thọ xúc tác ý với bốn đại, bốn đại sở tạo gọi là sắc, nói chung lại là danh sắc. Thức pháp có, cho nên danh sắc có. Thức pháp không, cho nên danh sắc không.

Sao gọi là thức?

Là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Đó gọi là thức. Hành pháp có, cho nên thức có. Hành pháp không, cho nên thức pháp không.

Sao gọi là hành?

Là sắc biến tư, thanh biến tư, hương biến tư, vị biến tư, xúc biến tư, pháp biến tư. Đó gọi là hành. Vô minh có, cho nên hành có. Vô minh không, cho nên hành không.

Sao gọi là vô minh?

Không biết đời trước. Không biết đời sau. Không biết đời trước sau. Không biết trong. Không biết ngoài. Không biết giữa. Không biết bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Không biết duyên. Không biết trong pháp duyên sinh hoặc hắc hoặc bạch. Không biết duyên cùng vơi không phải duyên. Không biết đối ngại hay không phải đối ngại.

Không biết có tội, không tội, không biết chỗ ứng thân gần. Không biết thân gần. Đối với các pháp không biết không thấy. Không có khả năng giác liễu tam muội hiện tiền. Đó gọi là vô minh. Vì có tác ý không đúng lý, cho nên có vô minh. Không có tác ý không như lý cho nên không có vô minh.

Sao gọi là tác ý không đúng lý?

Nghĩa là ta ở đời trước là có hay là không?

Ta ở đời trước đã quá khứ hay chưa quá khứ?

Ta ở đời trước thuộc vào loài nào?

Ta ở đời vị lai là có hay là không?

Đời vị lai sẽ ở nơi đâu?

Đời vị lai ta thuộc loài nào?

Trong nội pháp, cái gì gọi là có ngã, không ngã?

Lại sinh nghi hoặc là có hay là không?

Cái gì sinh?

Cái gì không sinh?

Nếu có sinh thì thuộc loài nào?

Do tác ý không đúng lý như vậy, cho nên đối với sáu kiến và các kiến khác mà khởi lên. Từ đó khởi lên kiến chấp có ngã, kiến chấp không ngã. Đối với ngã, ngã sở không có khả năng quán đúng lý bình đẳng. Do không quán đúng lý bình đẳng, cho nên mới có sinh khởi các kiến như vậy. Thế nên, có ngã, có thế gian thì là có duyên pháp.

Duyên pháp ấy không thường, không sức lực, không chắc chắn, cuối cùng biến hoại. Trong pháp rốt ráo chấp là chánh trụ và chánh an lập. Khi kiến chấp này thành rồi thì gọi là tác ý không đúng lý. Do phân biệt hư vọng mà có, cho nên có tác ý không đúng lý.

Sao gọi là phân biệt hư vọng?

Nghĩa là ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, Bổ Đặc Già La, nho đồng ý sinh, tác giả, thọ giả. Đây gọi là người hư vọng ngu si dị sinh, vô văn, đối với ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả… lại sinh chấp trước. Đây gọi là phân biệt, nói chung là hư vọng phân biệt.

Do có hư vọng phân biệt cho nên có tác ý không đúng lý. Phân biệt hư vọng không, nên tác ý không đúng lý cũng không. Do có hư vọng phân biệt và tác ý không đúng lý, cho nên có vô minh. Nếu cả hai pháp này không thì vô minh cũng không. Do vô minh có cho nên các hành mới có. Vô minh không thì các hành cũng không. Nói tóm lại, do sinh pháp có cho nên lão tử mới có, do sinh pháp không nên lão tử cũng không.

Này các trưởng giả! Nên biết, tất cả các pháp đều là phân biệt hư vọng, khởi lên rồi trói buộc vào duyên. Các duyên pháp ấy không thường, không sức lực, không chắc chắn, từ duyên chuyển. Do duyên pháp có, cho nên các pháp mới có.

Do duyên pháp không nên các pháp cũng không. Nhưng đối với các pháp có đó không có một pháp nhỏ nào có thể hiểu biet, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận. Cũng không có một pháp riêng nào là thường là đoạn.

Này các trưởng giả! Ví như trong ao lớn nước chảy, có các loại trùng cá sinh sống, ý cac ông nghĩ sao?

Các loài trùng cá ấy, nương vào sức nào?

Các trưởng giả bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các loài ấy nương vào sức nước.

Đức Phật hỏi: Này các trưởng giả! Các ông nghĩ sao?

Nước thật có sức không?

Các trưởng giả bạch Phật: Không có, thưa Thế Tôn! Không có, thưa Thiện Thệ!

Đức Phật hỏi các trưởng giả: Này các trưởng giả! Nước không có suy nghĩ thì làm gì có sức?

Các trưởng giả bạch Phật: Không có sức, thưa Thế Tôn! Không có sức, thưa Thiện Thệ!

Đức Phật bảo các trưởng giả: Này các trưởng giả! Hư vọng phân biệt khởi lên các pháp cũng như vậy, không có sức lực, không chắc chắn từ duyên chuyển. Do duyên pháp có, cho nên các pháp mới có. Nếu duyên pháp không, thì các pháp cũng không.

Nhưng đối với các pháp có đó không một pháp nhỏ nào có thể hiểu biết, cũng không có một pháp nhỏ nào hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc khởi, hoặc tận. Lại không có một pháp riêng nào là thường là đoạn.

Này các trưởng giả! Nếu suy xét tìm cầu duyên pháp ấy đúng như lý thì thật không thể tin, không thể nào tin, từ đó sinh ra sợ hãi.

Do sợ hãi nên dong ruổi bốn phương. Nếu tìm cầu suy xét như lý chắc chắn, thì cái gì là pháp này, cái gì là pháp kia. Khi quán sát được như vậy rồi thì không còn sợ hãi hay dong ruổi nữa. Lại một khi quán sát đúng như lý thì không thấy có một pháp. Do không có pháp nên không dong ruổi.

Vì sao?

Vì tất cả pháp không có sở đắc, tất cả tâm ý cũng không sở đắc.

Lại nữa, này các trưởng giả! Tất cả pháp vô ngã là vì lìa trần cấu. Tất cả pháp không chúng sinh là vì lìa ngã. Tất cả pháp không có thọ giả, là vì vượt khỏi tất cả pháp sinh, già, bệnh, chết, buồn rầu, khổ não, sầu than. Tất cả pháp không nhân là vì đoạn ba đời.

Tất cả pháp không có văn tự, vì lìa tất cả âm thanh ngôn ngữ. Tất cả pháp xưa nay không có mảy trần, vì không có sở duyên. Tất cả pháp vắng lặng là vì tướng cận tịch. Tất cả pháp thông đạt nhất thiết xứ là vì tự tánh như hư không.

Tất cả pháp nương vào không là vì không quyết định đối hiện. Tất cả pháp không lay động là vì không nương tựa. Tất cả pháp an trụ thật tế là vì tương ưng với không động không trụ. Tất cả pháp không ngôn thuyết là vì lìa sóng ngôn ngữ.

Tất cả pháp là không sắc tướng là vì lìa hình bóng, hiển sắc và đối ngại sở hành. Tất cả pháp là vô đẳng là vì lìa ngã tướng. Tất cả pháp không chỗ hiểu biết là vì lìa tâm ý thức. Tất cả pháp không hàm tàng vì vượt khỏi cảnh giới của mắt. Tất cả pháp không thể tin, vì vượt khỏi cảnh giới tai, mũi, lưỡi, thân, ý.

Đức Phật bảo: Này các trưởng giả! Tất cả các pháp không quán, không phải không quán.

Vì sao?

Vì lìa sinh, trụ, diệt. Tất cả pháp không chuyển không tạo tác, vì là lìa tâm ý thức. Tất cả pháp trói buộc vào duyên, là vì tự tánh không sức lực.

Lại nữa, này các trưởng giả! Mắt là do bốn đại tạo thành, không thường, không có sức mạnh, lại không rốt ráo, là pháp không chắc chắn, không sức lực, là pháp mau chóng mục nát, cho nên không thể tin, nhieu khổ não, tập hợp nhiều thứ bệnh tật.

Thế nên, này các trưởng giả! Ý không có nương tựa, cũng không tạo tác. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Do bốn đại tạo thành không thường, không sức lực, nên không rot ráo, không chắc chắn, không sức lực. Là pháp mau chóng mục nát, cho nên không thể tin, mhiều khổ não tập hợp, nhiều bệnh tật. Thế nên, này các trưởng giả! Ý không có nương tựa cũng không tạo tác.

Này các trưởng giả! Các pháp này nên học như vậy: Mắt này như bọt nước, không có bền chắc.

Mắt như bong bóng nước không có lâu dài.

Mắt như sóng nắng, sinh từ nghiệp phiền não khát ái.

Mắt như cây chuối, tự thể không thật.

Mắt như huyễn hóa, khởi từ điên đảo.

Mắt như giấc mộng, thấy từ hư vọng.

Mắt như tiếng vang, bị trói buộc vào duyên.

Mắt như hình bóng, do nghiệp đối hiện.

Mắt như mây nổi, tan trong chốc lát.

Mắt như điện chớp, biến diệt trong khoảnh khắc.

Mắt này không chủ, cũng như đất. Mắt này vô ngã, cũng như nước.

Mắt này không chúng sinh, cũng như lửa. Mắt này không thọ, cũng như gió.

Mắt này không nhân, cũng như hư không. Mắt này không thật, bốn đại là nhà.

Mắt này là tánh không, lìa ngã và ngã sở. Mắt này vô tri, như cỏ, cây, ngói, đá.

Mắt này không tạo tác, bị sức gió chuyển động. Mắt này là không, đầy dẫy bất tịnh.

Mắt này hư ngụy, tuy được lau rửa trang sức, nhưng rốt cuộc cũng bị tan hoại.

Mắt này như gò, như giếng, bị già bức bách.

Mắt này rốt ráo không biên tế, sau đều quy về chỗ chết.

Này các trưởng giả! Các ông nên biết, mắt đã như vậy, nên tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Nói tóm lại, nên biết tất cả pháp cũng như vậy. Các kẻ ngu dị sinh, đối với tất cả pháp dục liền sinh chấp trước. Khiến mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đắm trước vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Lại nữa, đối với sắc uẩn, thọ uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới, chúng sinh do đắm trước vào các pháp này, cho đến đắm trước vào danh tướng hữu vi, vô vi.

Thế nên, này các trưởng giả! Các ông chớ sinh ái trước vào các pháp dục ấy, chớ sinh tham đắm chấp trước vào vợ con, nhà cửa, tiền tài, châu báu mà phải phát lòng tin thanh tịnh xuất gia. Khi đã xuất gia rồi thì không còn sinh dục lạc nữa. Do không còn dục lạc đó, cho nên được đầy đủ tịnh giới, tu trì Ba La Đề Mộc Xoa thanh tịnh, viên mãn tất cả các phép tắc oai nghi, cho đến tội nhỏ cũng phải sợ.

Này các trưởng giả! Nếu học như vậy thì sẽ được đầy đủ giới uẩn. Khi được đầy đủ giới uẩn rồi thì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không còn chấp vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nữa.

Không chấp vào sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Không chấp vào nhãn giới, thức giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Không chấp vào địa giới, hỏa giới, thủy giới, phong giới, không giới, thưc giới. Nói tóm lại, không chấp vào tất cả các pháp. Do không chấp trước cho nên không bị giảm mất.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần