Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Tập địa Tạng Thập Luân - Phẩm Bốn - Phẩm Hữu Y Hành - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA

ĐẠI TẬP ĐỊA TẠNG THẬP LUÂN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Huyền Trang, Đời Đường  

PHẨM BỐN

PHẨM HỮU Y HÀNH  

PHẦN BA  

Này thiện nam tử! Nếu có Sát Đế Lợi Hiền Thiện cho đến Mậu Đạt La Hiền Thiện, hoặc nam hoặc nữ nào thành tựu mười luân nên làm theo này thì ngay trong hiện đời có thể mau gieo trồng hạt giống Độc Giác thừa, làm cho không lui mất, hoặc ngay trong hiện đời chứng Thánh pháp của Độc Giác thừa, thành tựu pháp khí độc giác thừa.

Này thiện nam tử! Đó gọi là luân nên làm theo của tất cả Thanh Văn, Độc Giác. Tất cả Thanh Văn và các Độc Giác nương vào luân này mau có thể vượt qua biển lớn ba cõi, mau hướng đến thành Niết Bàn.

Này thiện nam tử! Luân nên làm theo hữu y hành luân là nghĩa như thế nào?

Hữu y, hữu là có chấp thủ, có ngã sở. Y là có sự nhiếp thọ, có sự ràng buộc.

Hành là: Hành uẩn, hành giới, hành xứ và hành hệ thuộc. Luân là luân giáo thọ, giáo giới, như bánh xe của Chuyển Luân Vương hoặc thủ hành luân.

Như vậy, tất cả Thanh Văn, Độc Giác nương vào luân này mong cầu đạo Niết Bàn nên hai hạng này chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Vì sao?

Vì hai hạng đó nương vào hạnh thấp kém nên chẳng phải bậc đại thừa. 

Do vị đó tự mình chấp lấy các hành uẩn, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó tự mình nương vào các hành giới, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó nhiếp thọ các hành xứ, kinh sợ, nhàm chán mà mong cầu giải thoát tất cả buồn khổ cho mình, chứ không phải tu hành để mong cầu giải thoát cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó lệ thuộc hữu, lệ thuộc hành, đối với các hữu tình không ưa nhiếp thọ, không có tâm từ bi, có lệ thuộc nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó thấy người khác chịu đủ các khổ mà bỏ đi, không chịu cứu, chỉ mong cầu giải thoát cho bản thân mình nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó muốn diệt trừ phiền não căn bản cho mình mà không thích diệt trừ phiền não cho tất cả hữu tình nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó không có khả năng cỡi xe đại thừa hướng đến bồ đề nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó không thể theo bánh xe pháp lớn hướng đến bồ đề nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Do vị đó thích tu riêng một mình, không có bạn tu hành đồng đến thành Niết Bàn nên chẳng phải là bậc pháp khí đại thừa.

Này thiện nam tử! Các chúng sanh nào đối với pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa chưa lập công khó nhọc và siêng năng tu học thì chúng sanh đó căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn.

Nếu họ giảng thuyết chánh pháp đại thừa thâm sâu vi diệu thì hai bên người giảng và nghe đều mắc tội lớn, cũng là trái nghịch tất cả Chư Phật.

Vì sao?

Vì các chúng sanh ấy đối với pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa chưa lập công khó nhọc và siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn mà liền nghe, lãnh thọ chánh pháp đại thừa thâm sâu vi diệu như vậy.

Các chúng sanh này thật là ngu si mà tự cho mình thông suốt, phá tan, diệt trừ tưởng điên đảo, vọng chấp nói không có nhân, đối với các nghiệp quả phát sanh tưởng đoạn diệt, bác bỏ tất cả, không có điều thiện để làm, điều ác để tạo nghiệp.

Vọng nói đại thừa, phá hoại, làm rối loạn chánh pháp ta, rồi phi pháp nói là chánh pháp, chánh pháp nói là phi pháp.

Thật chẳng phải Sa Môn nói là Sa Môn, thật là Sa Môn nói chẳng phải Sa Môn. Thật chẳng phải Tỳ Nại Da nói là Tỳ Nại Da, thật là Tỳ Nại Da nói là chẳng phải Tỳ Nại Da.

Do tâm họ ngu si, điên đảo, cao ngạo, ngã mạn, ganh ghét bạn bè nên đối với pháp đại thừa ủng hộ, khen ngợi, làm cho lưu truyền rộng rãi, còn đối với pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa thì phỉ báng, làm chướng ngại, không lưu truyền rộng rãi.

Không thể như thật mà nương vào Thanh Văn thừa, hoặc Độc Giác thừa, hoặc vô thượng thừa mà bỏ thế tục xuất gia, thọ giới Cụ Túc, thành tựu tánh Bí Sô.

Cũng không thể như thật tu tập tất cả nhân duyên pháp thiện. Đối với đệ tử của ta hoặc là bậc pháp khí, hoặc chẳng phải bậc pháp khí, nghĩa là người siêng năng tu hạnh học, vô học, cho đến chứng đắc quả sau cùng.

Hoặc là phàm phu Hiền Thiện trì giới, phá giới, không có giới thì họ dùng đủ cách mắng nhiếc, quở trách, làm não loạn, hoặc đoạt lấy y bát của người, không cho thọ dùng các vật dụng.

Trói buộc, giam nhốt như vậy cho đến nói chấp đoạn, bác bỏ tất cả, không có nhân quả. Tuy họ ở trong loài người nhưng thật là La Sát, vào đời vị lai vô số đại kiếp khó được lại thân người.

Thà ở trong địa ngục chịu vô lượng khổ chứ không làm người mà sanh đoạn kiến. Người ngu si này, không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, trong nhiều ngày lưỡi bị cứng, không thể nói được, chịu các khổ đau đớn khó chịu nổi.

Sau khi qua đời, nhất định đọa vào ngục vô gián. Ở trong các đường ác xoay vần qua lại, thọ lấy các khổ, khó có thể cứu vớt, hàng trăm ngàn kiếp khó trở lại thân người.

Tuy đã trải qua vô lượng vô số kiếp rồi trở lại được làm người nhưng sanh trong đời năm trược, vào thời kỳ không có Phật, sanh ra bị mù, điếc, câm, ngọng, không có lưỡi.

Các thứ bệnh nặng thường làm đau khổ bức bách. Hoặc thân hôi dơ, người không muốn nhìn đến. Lời nói chậm chạp, vụng về, khó nghe. Tâm thường mê loạn, không hiểu rõ.

Sanh vào nhà nghèo cùng, thiếu thốn, không gặp bạn lành, làm theo bạn ác, thích tạo nghiệp ác ưa chấp ác kiến, tạo tội vô gián để trở lại đọa vào ngục vô gián, luân hồi trong đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi.

Như vậy, người ngu si chấp đoạn diệt, làm hư hoại, hủy diệt chánh pháp của ta, làm bức bách, xúc não, trách phạt các đệ tử trì giới, phá giới, không có giới của ta, làm cho họ không an tâm tu hành các điều thiện.

Do nhân duyên này mà hàng trăm ngàn kiếp chìm đắm trong các đường ác, từ chỗ đen tối này đến chỗ đen tối khác, khó có thời kỳ ra khỏi.

Những chúng sanh mắc tội báo như vậy đều là chưa mong cầu nghe, tu tập pháp Thanh Văn, Độc Giác thừa, mà trước mong cầu nghe, tu tập chánh pháp đại thừa thâm sâu vi diệu.

Người ngu si chấp đoạn như vậy sanh làm người thấp kém còn khó được, huống là thành bậc pháp khí Hiền Thánh. Còn không thể chứng được Niết Bàn của Thanh Văn, Độc Giác, huống là được đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác thâm sâu rộng lớn.

Những chúng sanh mắc lỗi lầm như vậy là đều do chưa học pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa mà trước đã học đại thừa.

Này thiện nam tử! Ví như bình sành bị nhiều lằn nứt, đựng các thứ dầu, sữa đều bị rỉ chảy.

Hai thứ: bình đựng và chất chứa trong đó đều bị hoại mất.

Vì sao?

Vì bình đựng bị hư hoại. Chúng sanh này đối với pháp Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa chưa chịu khó nhọc và siêng năng tu học, căn cơ chưa thuần thục, còn thấp kém, ít tinh tấn.

Nếu thuyết giảng chánh pháp đại thừa thâm sâu vi diệu thì người giảng, người nghe đều mắc tội lớn, cũng là việc làm trái nghịch tất cả Chư Phật, mắc tội lỗi đã nói rộng như ở trước.

Ví như kho tích chứa tài sản của báu ở đời bị sụp lở, tất cả đều tan mất. Những chúng sanh như vậy đối với pháp nhị thừa phỉ báng không tin, không chịu tu học mà giảng thuyết đại thừa cho họ nên hiểu biết không đúng như thật. Do đó tạo tội xoay vần không dứt.

Ví như ghe thuyền lủng rỉ nhiều chỗ, không thể chuyên chở qua biển lớn được, chúng sanh này phần nhiều tham lam, ganh ghét, đối với pháp nhị thừa chưa từng tu học, vọng xưng là đại thừa, thật là chấp đoạn kiến, kiêu mạn, dua nịnh, thành ra thân rỉ chảy, không thể nương cậy vào biển nhất thiết trí.

Ví như người mù mắt, không thể chỉ các thứ trân bảo, cũng vậy, chúng sanh kiêu mạn, buông lung, chấp trước kiến không, không học nhị thừa, mù mờ không có mắt trí tuệ, không thể chỉ rõ trân bảo công đức đại thừa Vô Thượng.

Ví như có người thân hôi dơ, tuy dùng các thứ hương thơm tốt nhất để thoa nhưng hoàn toàn không thể làm cho thân thể sạch thơm được.

Cũng vậy, chúng sanh ngu si kiêu mạn, đối với pháp nhị thừa không thích siêng năng tu tập, không bỏ sát sanh cho đến tà kiến. Tuy siêng năng nghe, lãnh thọ đại thừa Vô Thượng nhưng hoàn toàn không hiểu được chánh pháp thâm sâu.

Ví như ruộng đá, tuy gieo trồng giống tốt, gia công đầu tư vào ruộng, nhưng hoàn toàn không thu hoạch được.

Cũng vậy, chúng sanh đối với pháp nhị thừa kiêu mạn, biếng nhác, không ưa siêng năng tu tập, chỉ tham cầu năm món dục lạc chưa từng mỏi mệt nhàm chán. Tuy đối với bản thân gieo hạt giống đại thừa, siêng năng tinh tấn chịu khổ, nhưng hoàn toàn không có thành tựu.

Ví như cái hủ trước đã đựng thuốc độc, sau bỏ ít đường phèn, không thể ăn được. Cũng vậy, chúng sanh này đối với pháp nhị thừa không chịu tu học, chấp cho là không có nhân, nếu vì họ thuyết giảng đại thừa thì hoàn toàn không thể thành tựu lợi ích cho mình và người.

Ví như cái hủ, trước đây đựng đường phèn, sau bỏ ít thuốc độc, không thể dùng được. Cũng vậy, chúng sanh tinh tấn tu học chánh pháp nhị thừa, chưa được thành tựu, nếu thuyết giảng đại thừa cho họ thì cả hai đều mất.

Ví như người ngu si, tâm cuồng loạn mà trỗi các âm nhạc cho họ nghe, cũng không thể hiểu biết được.

Cũng vậy, chúng sanh đối với chánh pháp nhị thừa chưa từng tu học, bị phiền não tham sân si mạnh mẽ khuấy rối, chấp trước cho là không có nhân và chấp đoạn diệt, căn cơ chưa thuần thục mà thuyết giảng đại thừa cho họ nghe, tuy trải qua nhiều thời gian nhưng không thể hiểu rõ được.

Ví như có người không mặc áo giáp, đội mũ giáp, không cầm dao gậy mà liền xông vào chiến trận, ắt sẽ bị thương, chịu các đau khổ.

Cũng vậy, chúng sanh này đối với chánh pháp nhị thừa chưa từng tu học, trí tuệ thấp kém, căn khí chưa thành thục mà thuyết giảng đại thừa cho họ nghe, ắt sẽ sanh tâm vọng chấp.

Do đây, dần dần tạo các nghiệp ác không dứt. Người ngu si này không bao lâu thân thể sẽ bị thiếu khuyết, nhiều ngày lưỡi sẽ khô cứng không nói được, chịu các khổ đau đớn khó chịu nổi, sau khi qua đời nhất định sẽ đọa vào địa ngục vô gián, lưu chuyển qua lại trong các đường ác. Nên biết theo thứ lớp như đã nói rộng ở trước.

Này thiện nam tử! Thế nên người trí trước phải quán sát hết thảy tâm của chúng sanh rồi sau đó mới giảng thuyết chánh pháp. Trước phải phát sanh tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm làm lợi ích, tâm không biếng nhác, tâm nhẫn nhục, tâm không kiêu mạn, tâm không ganh ghét, tâm không xan tham, tâm thiền định, sau đó mới giảng thuyết chánh pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho các chúng sanh do nghe giáo pháp mà lưu chuyển trong sanh tử, đọa vào đường hiểm nạn lớn.

Thế nên Như Lai hiểu biết rõ tâm tưởng của tất cả chúng sanh, dùng hành luân vô trần cấu, hành luân vô thủ mà thuyết chánh pháp cho họ. Tất cả chúng Đại Bồ Tát đầy đủ đại giáp trụ giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh cũng như vậy.

Do thương xót nên làm cho họ diệt trừ các phiền não, làm cho họ vượt ra khỏi biển ba cõi, làm cho tất cả chúng sanh tùy theo tâm ưa thích mà hướng đến một thừa trong ba thừa và mau được viên mãn. Giảng thuyết chánh pháp cho họ nghe, hoàn toàn không làm cho họ lưu chuyển trong sanh tử, đọa vào nạn hiểm lớn.

Thế nào gọi là luân vô trần cấu hành?

Vô trần cấu nghĩa là lúc thuyết pháp, không vì có uẩn, không vì có xứ, không vì có giới, không vì có Dục Giới, không vì có Sắc Giới, không vì có Vô Sắc Giới, không vì có đời này, không vì có đời khác, không vì có các hành, không vì có thọ.

Không vì có tưởng, không vì có tư, không vì có xúc, không vì có tác ý, không vì có vô minh cho đến không vì có lão tử, không vì có hành và bất hành mà giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sanh.

Chỉ vì tất cả uẩn, xứ, giới, nói rộng cho đến hành và bất hành đều vắng lặng mà giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sanh.

Do nghĩa này nên gọi là vô trần cấu hành, nghĩa là có thể đoạn hẳn chết ở đây sanh ở kia, giảng thuyết chánh pháp cho các chúng sanh hay đoạn hẳn các uẩn, xứ, giới.

Nói rộng cho đến đoạn hẳn hành và bất hành mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh. Đó gọi là hành.

Luân nghĩa là như ánh trăng rằm chiếu sáng, diệu tỏa khắp không gian, chiếu soi tất cả cảnh vật không chướng ngại. Cũng vậy, Như Lai và các Bồ Tát có thần thông giảng thuyết, dạy bảo ba loại luân thù thắng có tác dụng vô ngại, đi khắp các Thế Giới giáo hóa làm lợi lạc tất cả chúng sanh, làm cho các chúng sanh cùng quy về một đường.

Điều này tất cả chúng sanh ở đời không có, tất cả Thanh Văn, Độc Giác cũng không có. Phật và Bồ Tát hay làm cho chúng sanh diệt trừ các khổ não sanh tử, chứng đắc quả Niết Bàn an vui. Đó gọi là hành luân vô trần cấu của Chư Phật Bồ Tát.

Thế nào gọi là hành luân không chấp thủ?

Nghĩa là đối với các pháp không chướng ngại, giống như ánh sáng Mặt Trời chiếu khắp tất cả. Các bậc pháp khí ba thừa tùy theo căn cơ chúng sanh mà giảng thuyết chánh pháp, không chấp trước.

Nghĩa là Chư Như Lai vì các chúng sanh giảng thuyết giáo pháp này, giống như hư không, không có tướng sai khác. Dùng vô lượng định an trụ trang nghiêm tự tại, giảng thuyết chánh pháp vi diệu cho các chúng sanh không chấp trước.

Tất cả chúng Đại Bồ Tát đầy đủ đại giáp trụ giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy.

Nghĩa là:

Lúc giảng thuyết các pháp chẳng phải có, chẳng phải không.

Chẳng phải là không của sắc, chẳng phải lìa không của sắc. Cho đến chẳng phải là không của thức, chẳng phải lìa không của thức.

Chẳng phải là không của nhãn, chẳng phải lìa không của nhãn. Cho đến chẳng phải là không của ý, chẳng phải lìa không của ý.

Chẳng phải là không của sắc, chẳng phải lìa không của sắc. Cho đến chẳng phải là không của pháp, chẳng phải lìa không của pháp.

Chẳng phải là không của nhãn thức, chẳng phải lìa không của nhãn thức. Cho đến chẳng phải là không của ý thức, chẳng phải lìa không của ý thức.

Chẳng phải là không của Dục Giới, chẳng phải lìa không của Dục Giới. Cho đến chẳng phải là không của hư không vô biên xứ, chẳng phải lìa không của hư không vô biên xứ.

Chẳng phải là không của thức vô biên xứ, chẳng phải lìa không của thức vô biên xứ. Chẳng phải là không của vô sở hữu xứ, chẳng phải lìa không của vô sở hữu xứ. Chẳng phải là không của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chẳng phải lìa không của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Chẳng phải là không của bốn niệm trụ, chẳng phải lìa không của bốn niệm trụ. Cho đến chẳng phải là không của tám chi Thánh Đạo, chẳng phải lìa không của tám chi Thánh Đạo.

Chẳng phải là không của pháp duyên khởi, chẳng phải lìa không của pháp duyên khởi. Chẳng phải là không của ba bất hộ, chẳng phải lìa không của ba bất hộ. Chẳng phải là không của bốn vô sở úy, chẳng phải lìa không của bốn vô sở úy.

Chẳng phải là không của mười lực, chẳng phải lìa không của mười lực. Chẳng phải là không của mười tám pháp bất cộng, chẳng phải lìa không của mười tám pháp bất cộng. Chẳng phải là không của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Chẳng phải lìa không của đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. 

Chẳng phải là không của Niết Bàn, chẳng phải lìa không của Niết Bàn. Đó là Như Lai và các Bồ Tát giảng thuyết chánh pháp vi diệu cho các chúng sanh.

Này thiện nam tử! Như vậy Như Lai vì các chúng sanh dùng hành luân vô trần cấu thuyết pháp như ánh trăng tròn chiếu sáng diệu tỏa khắp không gian, thấu suốt cảnh vật không bị chướng ngại, cho đến nói rộng như trên.

Lại dùng hành luân vô thủ giảng thuyết chánh pháp vi diệu, đối với tất cả pháp không bị chướng ngại, giống như mặt trời chiếu soi tất cả.

Bậc pháp khí trong ba thừa tùy theo căn cơ chúng sanh giảng thuyết chánh pháp không có chấp trước. Nghĩa là các đức Như Lai giảng thuyết giáo pháp như vậy cho các chúng sanh, giống như hư không không có tướng sai khác, dùng vô lượng định an trú trang nghiêm tự tại, vì các chúng sanh giảng thuyết chánh pháp vi diệu không bị chấp trước, làm cho các chúng sanh tùy theo sở thích mà hướng đến ba thừa.

Tất cả chúng Đại Bồ Tát đầy đủ đại giáp trụ giảng thuyết giáo pháp cho mọi người cũng lại như vậy, làm cho các chúng sanh nghe giáo pháp thâm sâu thù thắng này rồi, đối với ba thừa tùy theo sở thích mà hướng đến một thừa, các thiện căn đều được thành tựu.

An trú vào một thừa tốt nhất, hoàn toàn không làm cho người đó ở trong sanh tử tăng trưởng nhiều điều ác bất thiện, mà đối với Niết Bàn thì vững chắc không thối lui.

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát vì muốn dứt trừ dòng sanh tử cho vô lượng vô số chúng sanh mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác vì muốn dứt trừ dòng sanh tử của mình mà thuyết pháp cho họ.

Đại Bồ Tát vì làm cho vô lượng vô số chúng sanh vượt qua bốn bạo lưu mà thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác chỉ vì muốn làm cho mình vượt qua bốn bạo lưu mà giảng thuyết giáo pháp cho họ.

Đại Bồ Tát vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho vô lượng vô số chúng sanh mà giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Độc Giác vì muốn diệt trừ các bệnh phiền não cho mình mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sanh.

Đại Bồ Tát vì muốn dứt trừ các uẩn phiền não tập khí tương tục của chúng sanh, làm cho đoạn trừ hết không còn sót lại mà giảng thuyết giáo pháp cho họ.

Hàng Thanh Văn, Độc Giác chỉ vì mình muốn đoạn trừ các uẩn tập khí phiền não tương tục còn dư lại chưa đoạn hết mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sanh.

Đại Bồ Tát vì muốn thành tựu quả đại bi đẳng lưu mà đại bi là nhân nên giảng thuyết giáo pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Độc Giác không vì quả đại bi nên không có nhân đại bi mà giảng thuyết giáo pháp cho chúng sanh.

Đại Bồ Tát nhớ nghĩ các chúng sanh nên thuyết pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Độc Giác không nhớ nghĩ đến các chúng sanh mà thuyết pháp cho họ.

Đại Bồ Tát vì muốn làm ngừng khổ đau của tất cả chúng sanh mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Độc Giác chỉ vì muốn làm ngừng khổ cho mình mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh.

Đại Bồ Tát vì muốn tất cả chúng sanh được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Độc Giác chỉ vì bản thân mình được viên mãn pháp vị mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh.

Đại Bồ Tát vì muốn làm cho các chúng sanh thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chánh pháp cho họ. Hàng Thanh Văn, Độc Giác chỉ vì muốn mình được thông suốt thắng pháp mà giảng thuyết chánh pháp cho chúng sanh.

Này thiện nam tử! Nói tóm lại, Đại Bồ Tát có vô lượng luật nghi, vì muốn diệt trừ bóng tối vô minh lớn, sự sợ hãi lớn, tất cả suy tổn của tất cả chúng sanh, được ánh sáng lớn và tiếng khen lớn, như thật giác ngộ trí nhất thiết trí nên thuyết pháp cho họ.

Hàng Thanh Văn, Độc Giác có ít luật nghi, chỉ vì diệt trừ bóng tối vô minh cho bản thân, được ánh sáng nhỏ và ít tiếng khen, như thật giác ngộ chút phần pháp trí mà thuyết pháp cho chúng sanh.

Này thiện nam tử! Thanh Văn, Độc Giác không có tâm thật sự nhớ nghĩ đến chúng sanh, không có thật lòng thương xót chúng sanh, không có tâm thật sự không khinh thường chúng sanh, không có tâm thật sự làm lợi ích cho chúng sanh, không có tâm thật sự cứu giúp chúng sanh.

Không có tâm thật sự tiến cử người khác, không có tâm thật sự muốn khen ngợi người khác, không có tâm thật sự không dua nịnh mà khen ngợi người khác, không có tâm không luyến tiếc thân mình làm cho người khác an vui, không có tâm không khởi sai lầm về ba nghiệp thân, ngữ, ý đối với người khác.

Này thiện nam tử! Người an trú đại thừa không có tâm thật sự nghĩ nhớ đến bản thân mình, nói rộng cho đến không có tâm phát khởi sai lầm về ba nghiệp thân, ngữ, ý đối với người khác.

Lại nữa, này thiện nam tử! Có các chúng sanh bẩm tánh hung bạo, lời nói hung ác, thật là ngu si, ngã mạn, tự cho là thông minh, không trừ bỏ sát sanh cho đến tà kiến. Đối với người được lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen ở đời thì ganh ghét.

Thường tự tìm cầu lợi dưỡng, cung kính, tiếng khen ở đời chưa từng mỏi mệt. Thường khen ngợi mình, khinh chê người. Không phòng ngừa, giữ gìn ba nghiệp thân, ngữ, ý. Thường ưa làm tất cả điều ác. Ôm lòng độc ác, không có từ bi.

Không tàm, không quý. Ưa làm não loạn người khác. Đối với các bậc phước điền ưa so lường hơn thua. Đối với các người xuất gia quy y trong giáo pháp của ta thì ưa tìm vết xấu của họ. Vừa được chút ít hình tướng, không chịu xem xét hư thật thế nào mà liền khinh chê, quở mắng, trách phạt.

Tâm họ ương ngạnh, mê loạn, bướng bỉnh, tàn ác. Thường ưa làm não loạn các người xuất gia, không xét lỗi của mình mà nghĩ đến việc quở trách lỗi lầm của người khác.

Tuy khi được nghe tán thán công đức của đại thừa thì phát khởi ý chí mong cầu, nhưng tâm ưa làm các việc ác lớn, chưa từng dừng nghỉ, làm mê hoặc người khác. Đối với pháp đại thừa hiện tại, tự mình lắng nghe, dạy người khác lắng nghe.

Hiện tại tự mình đọc tụng, dạy người khác đọc tụng. Tự mình cống cao lấn hiếp kẻ khác. Đối với pháp đại thừa thì cung kính khen ngợi. Đối với các hạnh, cảnh giới của đại thừa tự mình chưa từng tu học, chưa có thể hiểu biết mà tự xưng ta là đại thừa, khuyên dụ người khác theo mình tu học, mưu cầu danh lợi để tự sinh sống.

Ví như vị thầy giữ luật mà lại phá giới, làm ác, tự mình phạm giới, ưa làm việc ác, vì danh lợi nên khuyến dụ người khác siêng năng tu học tạng luật.

Dua nịnh, lừa dối chúng sanh như vậy, làm thân người hạ tiện còn khó được, lui mất đường thiện đi đến Niết Bàn nhị thừa, huống là đắc đại thừa, hoàn toàn không có việc này, sẽ đọa vào đường ác, khó có thời kỳ ra khỏi. Những người có trí không nên thân gần người như vậy.

Người ở giữa đại chúng mà không có tàm quý, tự xưng là đại thừa như sư tử rống, vì danh lợi nên dụ người ngu si cuồng loạn làm cho thân gần mình, cùng nhau kết bè đảng.

Ví như con lừa đội lốt sư tử, liền tự cho mình là sư tử, có người trông thấy cho là sư tử thật, khi đến gần nghe tiếng kêu thì biết là lừa, họ cùng la lên: Đây chẳng phải là sư tử, ăn những đồ dơ bẩn. Thật là con lừa dơ xấu, rồi quở mắng đủ thứ và bỏ đi.

Ta nói hạng người này thường ưa làm mười nghiệp đạo ác, đốt cháy tất cả hạt giống Trời người. Pháp Thanh Văn, Độc Giác thừa còn thối lui, huống là đại thừa mà có thể thành tựu bậc pháp khí.

Người ngu si, kiêu mạn tự xưng là đại thừa, dối gạt người khác để chiêu tập lợi dưỡng. Ví như người không có chân tay, bị trở ngại, chậm chạp mà muốn vào trận lớn đánh nhau, dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng.

Giả xưng là đại thừa cũng như vậy, tay lòng tin, chân giữ giới không có trọn vẹn, tự mình không phòng giữ các nghiệp mà muốn đánh nhau với giặc phiền não, thì dù có cố gắng cũng không thể nào chiến thắng được. Ta nói những người này không giữ gìn ba nghiệp, hay làm việc ác, vọng xưng là đại thừa.

Đối với ba thừa thật chẳng phải là pháp khí mà muốn phá hoại giặc phiền não kiên cố, mạnh mẽ của tất cả chúng sanh, muốn hiển thị Tám Thánh Đạo cho tất cả chúng sanh, làm cho họ được vào thành Niết Bàn vô úy thì hoàn toàn không thể được.

Vì sao?

Này thiện nam tử! Vì bậc đại thừa thọ trì luật nghi thanh tịnh bậc nhất, tu hành thiện hạnh vi diệu bậc nhất, đầy đủ tàm quý kiên cố bậc nhất. Thấy rõ nên rất sợ quả khổ đời sau, xa lìa tất cả pháp ác, thường ưa tu hành tất cả pháp thiện, tâm từ bi ban khắp tất cả hữu tình, thường làm lợi ích an lạc, cứu giúp khắp tất cả chúng sanh vượt qua các đau khổ tai nạn sanh tử.

Không trông mong cho bản thân mình được an lạc, mà chỉ cầu mong cho tất cả chúng sanh được an lạc. Như vậy gọi là người an trụ vào đại thừa.

Này thiện nam tử! Những tướng nào gọi là Thanh Văn thừa?

Nghĩa là các chúng sanh thường siêng năng tinh tấn an trú chánh niệm, ưa định đẳng dẫn, xa lìa các dua nịnh, tin hiểu biết nghiệp quả báo, không đắm trước năm món dục lạc ở đời, không bị tám pháp thế tục làm nhiễm.

Tu tập việc thiện mạnh mẽ như cứu đầu đang cháy, thường quán xét kỹ các uẩn xứ giới, thường ưa an trú dòng giống Thánh. Người đầy đủ những tướng này gọi là bậc Thanh Văn thừa. Những chúng sanh như vậy còn chưa thành tựu pháp khí Độc Giác thừa, huống là có thể thành tựu pháp khí đại thừa.

Này thiện nam tử! Có những tướng nào gọi là Độc Giác thừa?

Nghĩa là các chúng sanh đầy đủ tất cả công đức của Thanh Văn thừa đã nói ở trên, lại phải đối với năm thủ uẩn kia thường an trú phép quán vô thường, thường an trú quán sanh diệt, ở trong tất cả pháp duyên sanh hay quán sát kỹ đều là pháp diệt. Người đầy đủ những tướng này gọi là Độc Giác thừa. Chúng sanh như vậy chẳng phải pháp khí đại thừa.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn làm rõ lại nghĩa này mà nói bài tụng:

Nếu bậc Sát Đế Lợi Hiền Thiện

Cho đến Mậu Đạt La Hiền Thiện

Tu tập tin theo mười luân trên

Mau thành pháp khí Thanh Văn thừa

Ba nghiệp thanh tịnh cầu Độc Giác

Đầy đủ tàm quý, sợ các uẩn

Biết lỗi, ưa ở nơi thanh vắng

Gìn giữ các căn, tâm tịch tịnh

Tu Tịnh lự, quán pháp duyên khởi

Khéo quán sát các uẩn, giới, xứ

Đủ mười luân hữu y hành này

Vượt qua biển khổ thành pháp khí

Tu cả nhị thừa và tam thừa

Cầu cho mình thoát khổ phiền não

Không độ hữu tình, bỏ tập khí

Người này chẳng phải khí đại thừa

Ngu si, biếng nhác, căn thấp kém

Đối pháp nhị thừa không siêng tu

Luân đại thừa quyết định không đủ

Nên chẳng phải khí lớn đại thừa

Ngu si cầu giải thoát riêng mình

Chí thấp kém, không hành từ bi

Ưa chấp đoạn kiến, hướng đường ác

Xả bỏ chánh pháp, nói phi pháp

Không trì luật, phỉ báng nhị thừa

Thọ giới cụ túc, xưng đại thừa

Phá pháp ta, mê hoặc chúng sanh

Do nhân này, khó được thân người

Não loạn pháp ta và Hiền Thánh

Trách phạt người mặc Ca Sa đỏ

Quở mắng, ngăn đoạt các y bát

Lui mất đường Trời người lâu dài

Thế nên muốn được lại thân người

Không do bệnh lưỡi mà mất mạng

Thường ưa đích thân gặp Chư Phật

Nên hoằng truyền chánh pháp ba thừa

Muốn được tối thượng trong ba thừa

Pháp ba thừa nên quán sát kỹ

Vui vẻ chỉ dạy khắp mọi người

Quyết định thành Phật không còn nghi

Phá giới, tham, ganh ghét, kiêu mạn

Khen mình, chê người, xưng đại thừa

Xa người ác đó, nương kẻ trí

Quyết định thành Phật độ ba cõi

pháp khí ba thừa tùy căn cơ

Từ bi giảng thuyết pháp ba thừa

Tùy nguyện viên mãn, không ganh, tham

Sẽ được thành Phật, không nghi ngờ

Biết uẩn, xứ, giới đều vắng lặng

Ví như hư không, không chỗ trú

Thuyết pháp giáo hóa các hữu tình

Sẽ được trí Diệu Giác vô biên

Phá giới, tâm ưa nghĩ điều ác

Nghe công đức đại thừa thù thắng

Dối xưng đại thừa vì danh lợi

Như lừa đội lốt da sư tử.

Nay ta bảo tất cả đại chúng

Nếu muốn mau được đạo thù thắng

Nên tu tập tốt mười nghiệp thiện

Hộ trì pháp ta, chớ phá hoại

Khi xưa ta thuyết các Khế Kinh

Cầu Đại giác nên hành đại thừa

Xa lìa Thanh Văn, Độc Giác thừa

Vì thanh tịnh nên nói pháp này

Từng cúng vô lượng câu chi Phật

Dứt ác, siêng tu, tâm thanh tịnh

Ta vì khuyên chúng sanh tinh tấn

Nên nói một thừa, không có hai

Chúng này đầy đủ khí ba thừa

Chỉ có thể trú Thanh Văn thừa

Tâm rất lo sợ nhiều sự nghiệp

Thì không thể chứng đắc bồ đề

Kẻ si ưa Độc Giác thanh vắng

Thì không khả năng đạt giác ngộ

Có thể an trú trí thượng diệu

Tùy theo sở thích thuyết ba thừa

Đủ công đức tịnh, ưa giải thoát

Nghe nói đại thừa đọa đường ác

Như bệnh có đàm, bày uống sữa

Bệnh không lành, tăng thêm độc hại

Vậy chẳng phải hạng Thanh Văn thừa

Nghe thuyết đại thừa, tâm mê loạn

Liền sanh đoạn kiến, đọa ác thú

Thuyết pháp cần phải quán căn cơ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần