Phật Thuyết Kinh Khởi Thế - Phẩm Mười Hai - Phẩm Tối Thắng - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT KINH KHỞI THẾ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM MƯỜI HAI

PHẨM TỐI THẮNG  

TẬP HAI  

Chư Tỳ Kheo, cung điện của Thiên Tử mặt trăng cao rộng bằng nhau bốn mươi chín do tuần, bốn bên bao bọc gồm bảy lớp bờ tường, bảy lớp lan can, bảy lớp dây chuông. Lại có bảy lớp hàng cây Đa La bao quanh nhiều màu dễ xem.

Các bờ tường ấy đều do vàng, bạc… cho đến mã não, bảy báu tạo thành. Các cửa ở bốn mặt đều có lầu gác, trang trí đủ thứ… cho đến các loài chim cùng nhau ca hót, như đã nói về cung điện mặt trời ở trước.

Chư Tỳ Kheo, cung điện mặt trăng thuần bằng bạc Cõi Trời, lưu ly xanh Cõi Trời xen kẽ lẫn nhau. Hai phần bạc Cõi Trời, trong sạch không dơ, không có cặn bẩn, thể nó trong sáng, ánh sáng chói lòa, còn phần kia là lưu ly xanh Cõi Trời, cũng rất trong sạch, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu xa.

Chư Tỳ Kheo, Thiên Tử mặt trăng kia, cung điện rất đẹp đẽ, được năm loại gió hộ tống đưa đi: Một là Trì, hai là Trụ, ba là Thuận, bốn là Nhiếp, năm là Hành. Do năm loại gió này hộ tống nên cung điện mặt trăng theo hư không mà đi.

Chư Tỳ Kheo, trước cung điện mặt trăng cũng có vô lượng cung điện của Chư Thiên dẫn đường đi trước. Vô lượng trăm ngàn vạn số Thiên Tử… cũng đi ở trước. Khi đi ở trước họ luôn luôn thọ hưởng vô lượng các thứ diệu lạc. Các Thiên Tử ấy đều có tên gọi.

Chư Tỳ Kheo, ở trong đại cung điện mặt trăng ấy, có một cỗ xe lớn, tạo thành bằng lưu ly xanh. Xe ấy cao sáu do tuần, rộng tám dotuần. Thiên Tử mặt trăng cùng với các Thiên Nữ ở trong xe này dùng đủ các thứ vui của năm dục, cùng nhau thọ hưởng, vui vẻ thỏa thích, tùy ý mà đi.

Chư Tỳ Kheo, Thiên Tử mặt trăng kia theo năm tháng Trời thọ năm trăm tuổi, con cháu truyền nhau, ngự trị nơi ấy. Những cung điện ấy trụ một kiếp.

Chư Tỳ Kheo, trong các bộ phận nơi thân thể của Thiên Tử mặt trăng phát ra ánh sáng chiếu khắp cỗ xe lưu ly xanh kia. Ánh sáng của xe ấy lại chiếu sáng cung điện mặt trăng. Ánh sáng của cung điện mặt trăng chiếu sáng bốn Đại Châu.

Chư Tỳ Kheo, Thiên Tử mặt trăng kia có năm trăm luồng ánh sáng chiếu xuống phía dưới, năm trăm luồng ánh sáng chiếu chung quanh. Vì vậy mặt trăng gọi là ngàn ánh sáng, cũng gọi là ánh sáng mát lạnh.

Chư Tỳ Kheo, do nhân duyên gì cung điện mặt trăng chiếu sáng bốn Đại Châu?

Vì trong quá khứ bố thí cho Sa Môn và Bà La Môn, người bần cùng cô độc từ xa đến xin ăn. Đều bố thí đồ ăn, thức uống, xe cộ, y phục, tràng hoa, các thứ hương thơm, giường, phòng, các vật dụng nuôi sống… khi bố thí, kịp thời, nhanh chóng, không có tâm dối trá quanh co.

Hoặc lại cúng dường chư Tiên đầy đủ công đức trì giới, chánh trực, thuần thiện. Do nhân duyên đó nên thọ vô lượng các thứ thân tâm an lạc. Thí như trong chốn núi đầm vắng vẻ, sa mạc hoang vu, có một ao nước, mát mẻ đẹp đẽ, không có cáu bẩn.

Khi ấy có người, đường xa mỏi mệt, đói khát nóng bức, vào trong ao này tắm rửa, uống nước, trừ tất cả khổ, thọ vô lượng lạc. Như thế, như thế, do nhân duyên trên, sanh trong cung điện mặt trăng thọ quả báo an lạc, cũng lại như vậy.

Chư Tỳ Kheo, hoặc lại có người dứt bỏ sát sanh cho đến dứt bỏ uống rượu và các hạnh phóng dật, cúng dường, phụng sự chư Tiên có đức thì được sanh vào trong cung điện mặt trăng, chiếu sáng bốn Châu. Hoặc lại có người vì dứt trừ sát sanh cho đến có chánh kiến nên được cung điện đi trên hư không nhanh chóng. Đây gọi là các đạo nghiệp thiện.

Lại do nhân duyên gì cung điện mặt trăng dần dần hiện ra?

Chư Tỳ Kheo, việc này có ba nhân duyên: Một là di chuyển, xuất hiện trái nhau. Hai là thân Chư Thiên màu xanh, hình mang Anh Lạc, tất cả đều xanh, thường trong nửa tháng, che khuất cung ấy, vì che khuất nên khi ấy hình mặt trăng dần dần hiện ra. Ba là từ cung điện mặt trời có sáu mươi luồng ánh sáng cùng loạt phát ra che vầng trăng kia, do nhân duyên ấy mặt trăng dần dần hiện ra.

Do nhân duyên gì cung điện mặt trăng ấy hiện ra tròn đầy như thế?

Chư Tỳ Kheo, cũng do ba nhân duyên nên có như vậy: Một là lúc bấy giờ cung điện mặt trăng chuyển xuất đối mặt nhau, do đó nên hiện ra tròn đầy. Lại nữa, Chư Thiên màu xanh, y phục bằng Anh Lạc, tất cả đều xanh, thường trong nửa tháng che khuất cung điện mặt trăng.

Nhưng cung điện mặt trăng này, vào ngày trai nhật, ngày thứ mười lăm, hình rất tròn đầy, ánh sáng vằng vặc. Thí như thắp đuốc lớn nhiều dầu lên, thì ánh sáng các ngọn đèn nhỏ đều bị lu mờ. Như vậy, cung điện mặt trăng, vào ngày thứ mười lăm có thể che khuất các thứ ánh sáng, cũng lại như vậy.

Sáu mươi luồng ánh sáng của cung điện mặt trời cùng lúc phát ra che vầng trăng. Cung điện mặt trăng này vào này trai nhật, ngày thứ mười lăm tròn đầy, ở tất cả chỗ đều không bị che khuất, khi ấy ánh sáng mặt trời chẳng thể che khuất được.

Do nhân duyên gì cung điện mặt trăng vào ngày thứ mười lăm của phần hắc nguyệt cung điện mặt trăng hoàn toàn không hiện?

Chư Tỳ Kheo, cung điện mặt trăng ấy vào ngày thứ mười lăm của phần hắc nguyệt quá gần với cung điện mặt trời, do ánh sáng mặt trời kia che khuất nên hoàn toàn không hiện.

Có nhân duyên gì cung điện của mặt trăng gọi là mặt trăng?

Chư Tỳ Kheo, cung điện mặt trăng đó, ở phần trăng tối, một ngày qua đi cho đến hết tháng, ánh sáng vằng vặc dần dần giảm đi. Do nhân duyên này gọi là mặt trăng.

Do nhân duyên gì trong cung điện của mặt trăng có các ảnh lần lần hiện ra?

Chư Tỳ Kheo, trong Đại Châu này có cây Diêm Phù. Do cây này nên gọi là Châu Diêm Phù. Cây ấy cao lớn, ảnh hiện trong vầng trăng. Do nhân duyên này nên có các ảnh hiện ra.

Do nhân duyên gì có các dòng sông chảy ở thế gian?

Chư Tỳ Kheo, vì có mặt trời nên có sức nóng. Vì có sức nóng nên có sự thiêu đốt. Vì có sự thiêu đốt nên có hơi bốc lên. Vì có hơi bốc lên nên có sự ẩm ướt. Vì có sự ẩm ướt nên trong tất cả núi chất lỏng chảy thành nước rồi hình thành các sông. Chư Tỳ Kheo, do nhân duyên này nên trong thế gian có sông chảy.

Do nhân duyên gì năm loại hạt giống xuất hiện ở thế gian?

Chư Tỳ Kheo, hoặc ở phương Đông có các Thế Giới hoặc thành rồi hoại, hoặc hoại rồi thành, hoặc thành rồi trụ. Các phương Nam, Tây, Bắc, thành hoại và trụ cũng lại như vậy. Lúc ấy có luồng gió lớn A Na Tỳ La đặc biệt ở Thế Giới thành trụ khác, thổi năm loại hạt giống rải vào Thế Giới này, rải rồi rải nữa cho đến rải khắp. Đó là hạt căn, hạt hành, hạt tiết, hạt tiếp, hạt tử. Đấy là năm loại hạt.

Chư Tỳ Kheo, quả của cây Diêm Phù lớn bằng cái chậu một hộc của nước Ma già đà. Khi hái quả ấy, nhựa chảy ra, sắc trắng như sữa, vị ngọt như mật. Chư Tỳ Kheo, quả của cây Diêm Phù, tùy chỗ sanh ra, có năm phần lợi ích. Đó là phương Đông, Nam, Tây và trên dưới. Quả sanh ở phần phía Đông thì các Càn Thát Bà cùng ăn. Quả sanh ở phần phía Nam là thức ăn của dân chúng trong bảy làng xóm.

Những gì là bảy?

Một là Bất chánh khiếu, hai là Khiếu hoán, ba là Chánh thể, bốn là Hiền, năm là Thiện, sáu là Lao, bảy là Thắng.

Ở trong bảy thứ làng xóm ấy có bảy ngọn núi đen: Một là Thiên Sương, hai là Nhất Bác, ba là Tiểu Cước, bốn là Hà Phát, năm là Bách Thiên Đầu, sáu là Năng Thắng, bảy là Tối Thắng.

Ở trong bảy núi kia có bảy cái hang là chỗ ở của Phạm Tiên: Một là Thiện Nhãn, hai là Thiện Hiền, ba là Tiểu, bốn là Bách Thiên Đầu, năm là Lạn Vật Trì, sáu là Hắc Nhập, bảy là Tăng Trưởng. Khi phần phía Tây sanh quả thì Kim Sí Điểu cùng ăn. Phần trên sanh quả thì Dạ Xoa hư không cùng ăn. Phần dưới sanh quả thì các loài sâu trong biển đến ăn.

Ở đây có bài kệ:

Mới nói mưa nhiều ít

Thị hiện trong cung điện

Hai việc có gió nhiều

Ở trước Chư Thiên đi

Xe cộ và thọ mạng

Thân thể ánh sáng chiếu

Nghiệp bố thí, trì giới

Vầng trăng đầy và khắp

Trăng bị che không hiện

Có ảnh do duyên gì

Các sông, các hạt giống

Cây Diêm Phù sau cùng.

Chư Tỳ Kheo, chúng sanh thuở ban đầu khi ăn vị đất, được nhiều lợi ích, sống lâu ở đời. Nhưng các người này, nếu kẻ ăn nhiều thì nhan sắc giảm sút, nếu ăn ít thì nhan sắc đẹp đẽ. Ngay khi ấy vì hình sắc hiện rõ nên chúng sanh khinh chê nhau, cùng tranh hơn kém.

Người đẹp thì sanh kiêu mạn, vì kiêu mạn, nên đất mất mùi vị, tiếp tục sanh lớp đất, sắc vị đầy đủ. Thí như hoa Yết Ni Ca La có màu sắc như vậy. Lại như mật nguyên chất nấu lên bỏ cặn bọt có vị như thế.

Các chúng sanh ấy cùng tụ tập lại, ưu sầu khổ não, đấm ngực kêu gào, mê loạn khốn đốn, nói thế này: Ôi! Vị đất của ta. Ôi! Vị đất của ta!

Thí như người đời nay có các vị ngon, sau khi thưởng thức, biết rồi nói rằng: Ôi tuyệt, đây là vị của ta! Chấp trước tên cũ chẳng biết thật nghĩa. Các chúng sanh ấy cũng như thế.

Khi ấy chúng sanh đó ăn lớp đất mỏng kia cũng sống lâu ở đời. Người ăn nhiều thì nhan sắc xấu, kẻ ăn ít thì hình dáng đẹp. Vì có đẹp xấu nên sinh ngã mạn, lăng nhục nhau. Lớp đất mỏng lại biến mất, sanh các loại dây bò, hình sắc trọn vẹn, hương vị đầy đủ.

Thí như hoa Ca lam bà Ca nở có sắc như vậy, cắt ra thì nhựa chảy giống như mật nguyên… cho đến như trước… tụ tập sầu não, lần lượt như vậy. Dây bò biến mất rồi, có lúa thơm mọc, chẳng cày chẳng gieo, tự nhiên mọc lên, không vỏ không cây, hạt gạo tinh khiết, hương vị đầy đủ.

Lúc ấy chúng sanh ăn loại đó rồi thân thể liền có mỡ, tủy, da, thịt, gân, xương, máu, huyết, các mạch lưu thông và tướng mạo, các căn nam nữ hiện rõ. Sắc tướng đã sanh, tâm nhiễm liền khởi, vì có nhiễm nên luôn nhìn nhau. Đã luôn nhìn nhau liền sanh ái dục. Vì ái dục nên ở chỗ vắng làm việc phi phạm hạnh bất tịnh.

Khi đó lại có các chúng sanh khác chưa làm chuyện này, thấy rồi bảo rằng: Các ngươi đã làm chuyện quá xấu hổ.

Tại sao như vậy?

Lúc ấy chúng sanh kia liền sanh xấu hổ, đã rơi vào các điều ác bất thiện, mới có danh tự Ba đế như vậy. Ba đế, đời Tùy dịch là đọa, tức là phu chủ.

Bấy giờ chúng sanh kia vì đọa vào các pháp ác như vậy nên người cùng hành dục đem đồ ăn uống biếu tặng cho nhau, nói với người nữ kia rằng: Ngươi có chồng rồi! Ngươi có chồng rồi! Nhân đó đặt tên là Bà Lê Da. Tùy dịch là Phạn thực, tức là vợ.

Chư Tỳ Kheo, do nhân duyên đó, các vị Thắng nhân hạ sanh trước, thấy ở thế gian có chuyện vợ chồng xảy ra, lòng sanh chán ghét, dùng tay trái nắm lấy, tay phải xô đi, khiến rời bỏ xứ sở.

Lúc đó đôi vợ chồng kia, hoặc hai tháng, hoặc ba tháng, đã đi rồi trở lại, liền bị những vị ấy dùng cây, gậy, đất cục, ngói, gạch ném quăng và nói: Các ngươi nên trốn đi! Các ngươi nên trốn đi!

Vì vậy ngày nay, khi các người con gái lấy chồng, được ném các thứ hoa, hoặc ném vàng bạc, y phục, la xà la xà tức là lúa khô làm hoa và nói lời chú nguyện: Xin chúc cô dâu an ổn hạnh phúc!

Chư Tỳ Kheo, lần lượt như vậy, việc người xưa cho là xấu, người đời này cũng làm như vậy lại cho là tốt đẹp. Do nhân duyên ấy, các chúng sanh ở trong cõi đời làm các hạnh ác, lần lượt như thế cho đến tạo dựng các kiểu nhà cửa, vì nghiệp xấu ác kia đã che khuất.

Kệ rằng:

Trước làm thành Chiêm Bà

Sau làm Ba La Nại

Qua kiếp tàn sau cùng

Quy hoạch thành Vương Xá.

Chư Tỳ Kheo, do nhân duyên đó các vị Thắng nhân ngày trước tạo lập thôn, thành, làng xóm, quốc ấp, kinh đô, cung thất, các trú xứ khác… làm đẹp thế gian, lần lượt xuất hiện.

Chư Tỳ Kheo, các chúng sanh như thế, khi càng tăng trưởng hạnh phi pháp thì có chúng sanh khác, phước mạng, nghiệp hết, từ Trời Quang Âm, bỏ thân xuống lại vào trong thai mẹ, thọ thai, sanh thân. Vì nhân duyên đó, người đời nhiều dần, việc phi pháp càng tăng.

Chư Tỳ Kheo, các Thắng nhân xưa sanh trước ở thế gian, các chúng sanh ấy vì phước lực có thừa nên chẳng cần cày gieo mà có gạo thơm tự nhiên sanh ra. Buổi sáng lấy phần thì phần buổi tối thấy sanh lại như cũ. Buổi tối lấy phần thì buổi sáng sanh lại như nguyên không khác. Nếu người chưa lấy thì vẫn còn y.

Chúng sanh sanh sau vì phước mỏng dần, trễ nhác, lười biếng, tâm sanh tham tiếc, nghĩ thế này: Nay, gạo thơm này chẳng phải cày gieo mà có thì cần gì phải khổ công phân chia hai buổi sớm tối đi lấy, tự chuốc lấy sự mệt nhọc, nay ta có thể lấy luôn một lần, liền lấy hai phần gạo thơm một lần.

Có chúng sanh khác đến kêu người kia nói: Giờ ăn sắp đến, hãy cùng nhau đi lấy gạo thơm.

Người kia đáp: Tôi đã lấy luôn phần buổi sáng, buổi tối cùng một lúc đem về rồi. Ngươi muốn đi lấy thì cứ đi đi!

Người đó nghĩ: Người này làm hay, khỏe khoắn quá. Hai phần sớm tối cùng lấy luôn! Ta nay cũng có thể lấy hai phần ăn của ba ngày. Nghĩ như thế xong vị ấy liền làm.

Bấy giờ lại có các chúng sanh khác rủ người kia: Chúng ta hãy cùng nhau đi lấy gạo thơm!

Người kia đáp: Tôi đã lấy trước phần ăn ba ngày rồi! Các ngươi tự đi đi những người ấy nghe rồi lại nghĩ: Người này khôn quá!

Chúng ta nay cũng nên cùng lúc lấy luôn phần của bốn, năm ngày để dự trữ. Do nhân duyên đó, bấy giờ gạo thơm dần dần sanh lúa, bọc hạt gạo bên trong. Lại chỗ bị gặt, không còn mọc nữa, chỗ chưa gặt thì vẫn còn y nguyên. Khi ấy ruộng lúa mới có sự phân chia, cỏ cây mới mọc.

Lúc đó chúng sanh mới cùng tụ tập lại sầu lo khóc lóc, tự bảo nhau: Ta nhớ khi xưa, thân được sanh ra, dùng sự vui mừng làm thức ăn, tự nhiên phát sáng, bay trên không tự tại, thần sắc đẹp đẽ, thọ mạng lâu dài.

Nhưng vì chúng ta bỗng sanh vị đất, sắc hương đầy đủ, ăn cũng sống lâu. Nếu ai ăn nhiều, hình sắc thô xấu, còn người ăn ít, nhan sắc vẫn đẹp. Vì tranh đẹp xấu nên sanh tâm kiêu mạn, trở thành sai biệt. Do sự việc này vị đất biến mất.

Kế sanh lớp đất mỏng, tiếp sanh dây bò, rồi sanh gạo thơm, cho đến cây lúa, gặt rồi chẳng sanh, chưa gặt vẫn còn. Vì vậy nên thành có phân chia, cỏ cây mọc lên. Nay đây chúng ta nên chia khu vực, làm thành ranh giới, kia là phần anh, đây là phần tôi, và lập khế ước, người phạm bị phạt.

Chư Tỳ Kheo, do nhân duyên đó, thế gian mới có các danh từ ranh giới, trách phạt xuất hiện.

Bấy giờ trong bọn họ có một chúng sanh vì tiếc lúa của mình, trộm lấy lúa của kẻ khác.

Có người phát hiện liền bảo: Ôi! Ngươi đã làm việc thậm ác! Đã làm việc thậm ác!

Tại sao mình có rồi, lại trộm lấy của người khác?

Trách rồi thả đi và nói: Chớ làm như vậy nữa! Nhưng chúng sanh ấy lại làm nữa, cũng trách rồi thả đi.

Như vậy ba lần, không chịu hối cải, nên nặng lời trách mắng, dùng tay đánh vào đầu, dắt đến đám đông bảo với mọi người: Người này ăn trộm.

Nhưng người ăn trộm kia ở trước đám đông, chống chế cãi lại nói với mọi người: Nay chúng sanh này dùng lời thô ác, cố ý mạ nhục, dùng tay đánh đầu tôi.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần