Phật Thuyết Kinh đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật đa - Phẩm Sáu - Phẩm Tịnh Giới Ba La Mật - Tập Một
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA LÝ THÚ LỤC BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư
Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường
PHẨM SÁU
PHẨM TỊNH GIỚI BA LA MẬT
TẬP MỘT
Khi giữa đại chúng, Đức Thế Tôn rống tiếng Sư Tử nói đầy đủ bố thí Ba la mật đa rồi, Đại Bồ Tát Từ Thị chắp tay cung kính thưa: Bạch đại thánh Thế Tôn! Ngài đã nói người tu hành đại thừa phải mở lòng từ bi rộng lớn để hành bố thí Ba la mật đa.
Còn tịnh giới Ba la mật đa phải làm cách nào để được viên mãn?
Tịnh giới là gì?
Phòng ngừa những lỗi lầm nào?
Giữ gìn như thế nào để được thanh tịnh?
Nếu giữ giới thanh tịnh thì đời hiện tại, vị lai được quả báo gì?
Và giữ gìn thế nào để chứng vô thượng bồ đề?
Cúi xin Đức Thế Tôn phân biệt giảng nói để làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.
Lúc ấy, Đức Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn khen Đại Bồ Tát Từ Thị: Lành thay, lành thay! Ông đã giữ gìn giới thanh tịnh trong vô lượng trăm ngàn ức kiếp, vì lợi ích an lạc cho hữu tình nên ông đã hỏi nghĩa như vậy. Ông hãy nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giảng nói.
Thiện nam, thiện nữ nào tu tập đại thừa, muốn tịnh giới Ba la mật đa được viên mãn nên phát tâm rộng lớn như vậy: Vì thương xót tất cả chúng sinh nên không sợ địa ngục, không mong cầu sinh lên Trời, giữ giới cấm không để cầu riêng mình giải thoát.
Lại chánh niệm tư duy: Xưa kia ta đã phát thệ nguyện rằng, nếu thấy hữu tình nào phá giới cấm thì sẽ khuyên họ giữ giới thanh tịnh một cách kiên cố, lấy giới thanh tịnh của Phật làm chuỗi anh lạc để trang sức thân.
Nếu ta không giữ gìn giới thì lấy giới đâu để làm lợi ích cho hữu tình?
Do nhân duyên đó mà khuyên họ giữ giới. Nếu không như vậy thì làm sao đưa tất cả hữu tình đến vô thượng bồ đề.
Vì sao?
Vì kẻ phàm phu bản thân họ không thanh tịnh, là người phá giới, miệng tuy nói chánh pháp, khuyên mọi người giữ giới, nhưng cuối cùng chính mình lại phạm nên không tin, ngược lại bị khinh chê rằng: Nếu muốn dạy người khác giữ giới thanh tịnh, sao mình không giữ mà lại hủy phạm giới ư?
Lấy đó mà suy nghĩ thì ông nên giữ giới, nếu ông không giữ giới thì dù miệng ông nói ra nhưng không lọt vào tai của ông.
Như vậy, ông luôn bị mọi người khinh chê, làm sao có thể khuyên người giữ giới thanh tịnh?
Cho nên phải biết, trước tiên hãy tự kiểm thúc chính thân mình, xa lìa phóng dật, giữ tịnh giới Ba la mật đa một cách kiên cố, sau đó mới nói chánh pháp then chốt cho người. Nghe xong, hữu tình tin theo, lúc tin rồi, họ sẽ giữ gìn giới Phật đủ đầy, trong sạch, cho đến lúc chứng quả vô thượng bồ đề.
Này Từ Thị! Chúng sinh nào phát tâm bồ đề rộng lớn, vì tất cả chúng sinh trong năm cõi bốn loài, cho đến giữ gìn một giới cấm cũng được gọi là nhập vào tịnh giới Ba la mật đa của Phật, có thể chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Từ Thị! Đại Bồ Tát tu tập đại thừa thấy các hữu tình đọa trong đường ác, cần phải tu tập tịnh giới Ba la mật đa để cứu vớt chúng ra khỏi cảnh khổ ấy, an trí vào bờ kia Niết Bàn.
Nhưng khi tu hành, Bồ Tát gặp ba chướng lớn là: Sân hận, xan tham và nhiễm dục.
Sân giận có thể làm thoái tâm từ bi, tâm đại bi là cội gốc của tất cả hạnh bồ đề. Nhờ năng lực của đại bi mà nằm mộng không có tưởng sát sinh, huống gì khi thức lại giết sinh mạng để ăn thịt ư!
Tâm xan tham không thể nào bố thí. Tài sản của mình thì keo kiết, lại tham muốn của cải người khác. Cho nên Đại Bồ Tát thấy của cải như thấy rắn độc, không bao giờ tham đắm.
Nhiễm dục chẳng phải hạnh thanh tịnh, nên tránh xa bùn dơ năm dục. Tham dục này là nguồn gốc của các khổ. Nó làm chướng ngại sáu pháp Ba la mật đa và có thể thiêu đốt tâm bồ đề.
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:
Tánh nữ yêu mị mê hoặc người
Như thù giả thân, chớ cho gần,
Tham dục mê loạn phá thanh tịnh
Như dòng thác chảy xô tường đá.
Tánh người nữ rất là dua nịnh
Như nước theo dòng, tánh không định,
Luôn nghĩ người khác cướp chồng mình
Người trí nghĩ kỹ nên tránh xa.
Như voi chúa trắng ở Tuyết Sơn
Sức vòi mạnh nhổ cây cao lớn
Thấy voi cái, tâm liền say mê
Dồn vào hầm bẫy bị điều phục.
Như nai ăn cỏ uống nước trong
Có thể băng xa các hang núi
Thợ săn giả làm tiếng của nai
Nai tìm tiếng đến bị chết ngay.
Như cá lặn sâu vào chỗ kín
Trong nước dạo chơi khó thấy được
Vì tìm thức ăn, nuốt mồi câu
Tham dục mất thân cũng như vậy.
Giống như ong mật tham hương hoa
Mùi hôi từ voi say lan tỏa
Ong tham bu ngửi khắp thân voi
Bị tai voi đập, ngã ra chết.
Như đèn không gió mà phực cháy
Phù du tưởng ánh sáng lao vào
Vào lửa để rồi tự thiêu thân
Tham ái mất thân cũng như vậy.
Năm trần quấn chặt thân chúng sinh
Mỗi trần hại người như thuốc độc
Người nhận pháp ấy suy nghĩ kỹ
Các khổ tích tụ không an lạc.
Lửa cháy hừng hực còn được chạm
Gió dữ xoáy tròn có thể ngăn
Nộc rắn sân giận điều phục được
Lòng người nữ rất khó ngăn cấm.
Nước công đức trong ao Vô Nhiệt
Chảy vào biển không uống được nữa
Mất đi tám mùi thành mặn chát
Gần gũi người nữ mất pháp lành.
Phật dạy Từ Thị: Do đó nên biết, dù trong mộng cũng không nên tưởng nghĩ gần gũi người nữ, huống gì khi thức mà hành dục với họ!
Lại nữa, đã lìa ba chướng ngại rồi, Đại Bồ Tát nên tu tập mười giới thanh tịnh.
Đó là: Ba giới thanh tịnh thuộc về thân, bốn giới thanh tịnh thuộc về khẩu và ba giới thanh tịnh thuộc về ý.
Ba giới của thân là không được sát sinh, trộm cắp và tà dâm.
Thế nào là không sát sinh?
Nghĩa là nếu thấy hữu tình bị tổn hại nên đem lòng từ bi đến cứu chúng, hoặc đem của cải chuộc lại cho nó được thoát. Nếu chuộc không được thì đem thân mạng mình thay thế nó, huống gì tự mình giết hại.
Không trộm cắp nghĩa là dù trong giấc mộng, Đại Bồ Tát cũng không có tư tưởng trộm cắp của cải người khác, huống gì khi thức mà có tâm lấy. Tài sản của mình thì đem bố thí với tâm thanh tịnh không tham tiếc và khuyên người khác đừng lấy những vật chủ không cho, luôn thực hành bố thí Ba la mật đa.
Xa lìa nhiễm dục nghĩa là Đại Bồ Tát tránh xa cảnh giới năm dục và nói tội lỗi năm dục cho hữu tình nghe để họ xa lìa năm dục, tà hạnh. Khen ngợi công đức vô lượng của người xuất gia để cho chúng sinh từ bỏ gia đình đi xuất gia, cứu vớt hữu tình ra khỏi ngục tham ái.
Đó là ba giới thiện thuộc về thân.
Bốn giới thuộc về miệng: Nghĩa là xa lìa lời nói lừa dối, lời ly gián, lời độc ác và lời không có ý nghĩa.
Lời nói lừa dối là không thấy nói thấy, việc nghe, nhận biết, hiểu biết… cũng như vậy. Đối với những sự hư dối này đều phải xả bỏ tất cả. Nói lời chân thật gọi là xa lìa vọng ngữ.
Lời nói ly gián là tới người này nói chuyện người kia, tới người kia nói chuyện người này để chống trái nhau rồi gây tranh cãi. Lìa bỏ lời ly gián, luôn nói lời hòa thuận, đó gọi là xa lìa việc nói lời ly gián.
Nói lời hung ác là phát ra những lời hung ác để cho người kia khổ não. Họ không muốn nghe mà bắt buộc phải nghe. Nếu lìa bỏ lời nói hung ác để cho người kia vui vẻ thì gọi là xa lìa lời nói hung ác.
Lời nói không có ý nghĩa, nghĩa là nói chuyện bàn luận với tâm nhiễm dục, dẫn đến tà luận không có lợi ích. Vì làm lợi ích cho hữu tình phải bỏ lời nói giả dối vô nghĩa mà nói lời chân thật hợp thời. Đó gọi là xa lìa lời nói vô nghĩa.
Như vậy, Bồ Tát lìa bỏ bốn lỗi thuộc về miệng, tu tập bốn loại lời nói thiện của Như Lai. Thường vì hữu tình nói lời dịu dàng để người nghe pháp hoan hỷ tín thọ. Giống như ngọc thủy thanh làm lắng trong nước đục, người nghe pháp tín thọ cũng như vậy.
Này Từ Thị! Ý nghiệp bất thiện cũng có ba: Tham lam, sân giận và ngu si.
Không tham lam tật đố nghĩa là thấy người khác giàu có, sang trọng thì mình không có tâm ganh tỵ, phải chánh tư duy suy nghĩ như vậy: Nguyện cho tất cả hữu tình được giàu có sang trọng, không bị thiếu kém. Các hữu tình ấy phải chịu khổ cực gian nan mới được như vậy.
Vì sao ta trở lại ganh tỵ với họ?
Tài sản của ta còn đem cho họ, huống gì chính họ làm ra, ta nên tùy hỷ chứ sao lại ganh tỵ?
Nhờ suy nghĩ như vậy mà đối với hữu tình kia ta không ganh tỵ, mà lại tùy hỷ. Nếu diệt trừ được lòng tham lam ganh tỵ như vậy gọi là Bồtát giữ giới với tâm thanh tịnh.
Không sân giận nghĩa là bị các hữu tình vu oan, phỉ báng, vô cớ bị đánh đập, chặt xẻo từng phần thân thể nhưng Bồ Tát không sân giận, lại nghĩ như vậy: Ta đã phát nguyện không nổi sân giận với các hữu tình, sao nay ta lại nổi sân với họ?
Xưa kia ta nguyện thường dùng thuốc chánh pháp để trừ bệnh sân cho hữu tình.
Nếu đối với chúng sinh mà nổi sân thì làm sao có thể cứu chữa được bệnh tất cả chúng sinh trong lúc bệnh mình không tự cứu chữa được?
Lại nữa, khi hữu tình sân giận thì Bồ Tát nhận lỗi về mình và nghĩ rằng: Vì phước đức của ta quá mỏng làm cho người khác nổi sân. Nếu ta không có lỗi thì họ chắc chắn không giận. Lại nữa, Đại Bồ Tát thấy hai hữu tình giận nhau kết thành thù oán, không chịu buông bỏ.
Thấy vậy, Bồ Tát thương xót nghĩ rằng: Nếu hữu tình không buông bỏ hận thù mà sân giận thì sẽ đọa vào địa ngục, bị lửa thiêu đốt thân, chịu đại khổ não, đó là lỗi của ta. Ta sẽ dùng thuốc chánh pháp để trị bệnh sân giận cho họ.
Xưa kia ta đã nguyện rằng: Nguyện cho tất cả chúng sinh trừ bỏ bệnh sân giận, vì sao ngày nay ta không đoạn trừ bệnh ấy cho họ mà mình lại bị ma sân trói giữ, không tự biết để bị lửa dữ thiêu đốt thân?
Đã bị ma bắt giữ, cầm dao đến giết hại, dù ta biết là ma quỷ nhưng không bao giờ nổi sân giận mà còn thương xót họ.
Không tà kiến nghĩa là tất cả chúng sinh đều có tà kiến rất là sâu dày. Bồ Tát đại bi lấy đuốc chánh kiến làm ánh sáng lớn chiếu sáng để họ thấy được Tam Bảo, tin tưởng và ưa thích công đức của Phật, Pháp, Tăng. Ngoại đạo và chúng sinh dù có làm chướng ngại cũng không thể nào phá hoại tâm chánh kiến của họ được và khiến họ tu đại thừa hạnh không thể nào thoái chuyển.
Này Từ Thị! Đại Bồ Tát hành Đại Thừa, nếu muốn chúng sinh lìa bỏ nghiệp ác thì trước tiên bản thân của Đại Bồ Tát phải bỏ mười điều ác, tu mười điều lành.
Vì sao?
Vì nếu khi các Bồ Tát tự hành mười điều thiện thì có dạy bảo điều gì mọi người mới đều tín thọ.
Nếu mình không làm mà đi giảng dạy cho người, không khác gì có người bị nước cuốn trôi nói với người trên bờ rằng: Ta có thể cứu ngươi, thì không thể có chuyện như vậy được.
Người tạo mười điều ác cũng vậy, chính mình bị dòng thác mười điều ác cuốn trôi, mà lại nói với chúng sinh rằng: Ta sẽ cứu các người, thì điều này cũng không thể xảy ra. Bồ Tát tu tập đầy đủ mười điều lành và lần lượt dạy người làm như vậy, thì gọi đó là tu tập tịnh giới Ba la mật đa.
Đại Bồ Tát Từ Thị thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Hữu tình đoạn trừ mười điều ác, tu mười điều lành như vậy thì được quả báo gì?
Đức Thế Tôn khen Đại Bồ Tát Từ Thị: Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Ông hãy lắng nghe cho rõ, suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ vì ông mà lần lượt giải nói. Mười nghiệp thiện này, mỗi nghiệp đều có bốn quả báo.
Những gì là bốn?
1. Hiện tại được an lạc.
2. Thế lực của oán thù, phiền não bị suy yếu.
3. Đời vị lai luôn được tôn quý, không thiếu thốn.
4. Tinh tấn tu tập, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Không sát sinh được bốn quả báo:
1. Đại Bồ Tát không có tâm hại chúng sinh, còn ban bố pháp vô úy để họ không sợ hãi. Vì không sợ sệt nên được tất cả chúng sinh gần gũi cúng dường, tôn trọng ca ngợi. Bồ Tát có lòng thương xót hữu tình, do có lòng từ bi nên tất cả oán hận quá khứ tự nhiên dứt bỏ.
2. Tâm sân giận sát hại đều bị suy yếu. Bồ Tát lấy cam lồ từ bi thoa tâm mình thì có thể diệt trừ sân nhuế… và lửa phiền não, ngủ nghỉ an ổn không có ác mộng. Do có lòng từ bi nên các loài ăn máu thịt như các quỷ, Dạ Xoa… xả bỏ tâm sát hại và cùng thú dữ bảo vệ nhau.
3. Đời vị lai được ba quả báo:
Sống lâu, không chết yểu.
Sinh ra chỗ nào đều không bị các bệnh khổ.
Giàu có của cải, thường được thoải mái.
4. Vì không sát sinh nên được phần pháp Phật. Sinh trong năm đường, ở chỗ nào cũng được tự do, cho đến ngồi dưới gốc cây bồ đề, các ma, quỷ thần cũng không thể nào làm chướng ngại được. Bồ Tát tinh tấn tu tập thành Chánh Đẳng, Chánh Giác được vô lượng Thánh Hiền vây quanh.
Này Từ Thị! Trên đây là bốn quả báo của việc lìa bỏ sát sinh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tam Mạn đà Bạt đà La Bồ Tát - Phẩm Một - Phẩm Năm Sự Che Lấp
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Sáu - phẩm Mười Năm - Phẩm Nhị Hạnh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh điều Tương Sĩ
Phật Thuyết Kinh Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Công đức Thâm Sâu - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - phẩm Bốn - Phẩm Vãng Sanh
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Hai - Phẩm Hai Kệ - Phẩm Hai
Phật Thuyết Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật đa - Phẩm Bốn - Phẩm Nhị đế