Phật Thuyết Kinh Kim Cương đỉnh Pháp Tu Hành Quán Tự Tại Vươi Như Lai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bất Không, Đời Đường

KINH KIM CƯƠNG ĐỈNH PHÁP

 TU HÀNH QUÁN TỰ TẠI VƯƠNG NHƯ LAI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường  

Nay ta y theo Kinh Kim Cương Đỉnh Vajra śekhara sūtra diễn nói Pháp Yếu của Kim Cương Liên Hoa Đạt Ma Vajra padma dharma. Trước hết nên vào Quán Đỉnh Tam Muội Gia Mạn Trà La Abhiṣeka samaya maṇḍala, phát tâm Đại Bồ Đề Mahā bodhi citta.

Buông xả: Thân mệnh, tiền của, tất cả lợi ích. Dũng mãnh tinh tiến, tùy niệm tương ứng từ, bi, hỷ, xả không có gián đoạn. Người như vậy mới nên tu tập.

Pháp của nhóm Mạn Trà La, vẽ Tượng… rộng như Kinh khác đã nói.

Phàm vào Tịnh Xá, lúc muốn niệm tụng. Trước tiên để năm Luân sát đất đỉnh lễ Bản Tôn Quán Tự Tại Vương Như Lai Avalokiteśvara rāja.

Tiếp lễ Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Như Lai Amogha siddhi cho đến Vô Động Akṣobhya, Bảo Sinh Ratna saṃbhava, Biến Chiếu Như Lai Vairocana thảy đều y theo pháp chí thành kính lễ. Quỳ hai gối, chắp tay Liên Hoa Hợp Chưởng, sám hối tất cả lỗi lầm của ba nghiệp.

Con từ vô lượng kiếp

Đắm chìm biển sinh tử

Nay dùng tâm thanh tịnh

Tỏ bày xin sám hối

Như Chư Phật đã sám

Nay con cũng như vậy

Nguyện con với chúng sinh

Tất cả đều thanh tịnh.

Mật Ngôn là: Án, cấp phộc bà phộc, truật đà. Tát phộc đạt ma cấp phộc bà phộc, truật độ hám.

Tiếp nên Tùy Hỷ Phước Trí đã gom tập của Chư Phật Bồ Tát thời quá khứ, hiện tại, vị lai.

Quá khứ ba đời Phật

Bồ Tát và chúng sinh

Đã gom chứa căn lành

Chắp tay tùy hỷ hết.

Tiếp nên quỳ gối phải sát đất, chắp tay giữa rỗng hư tâm hợp chưởng, đặt trên đỉnh đầu, tưởng lễ dưới chân của Chư Phật và Bồ Tát.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát nạp ma vĩ đa nửa âm.

 Lễ Chư Phật xong.

Y theo Tọa Ấn: Tùy ý ngồi theo thế bán già hoặc toàn già, rồi vào định suy tư, quán Đức Vô Lượng Thọ Như Lai Amitāyus tràn đầy khắp pháp giới Dharma dhātu, tự thân Hành Giả đều ở trong hội ấy.

Sau đó kết Bí Mật Tam Muội Gia Ấn: Kiên Cố Phộc, đem đàn tuệ hai ngón út thiền trí hai ngón cái cùng hợp nhau đứng thẳng. Dùng Ấn này cảnh giác Thánh Chúng.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, phộc nhật la, bát ná mang, tam muội gia, tát đát phạm.

Tiếp nên kết Nhất Thiết Như Lai Hoan Hỷ Duyệt Ý Tam Muội Gia Ấn: Dựa theo Ấn trước, chỉ đưa nhẫn nguyện hai ngón giữa vào trong lòng bàn tay.

Mật Ngôn là:

Án, tam mang gia, hộc, tô la đa, tát đát phạm.

Tiếp kết Khai Tâm Ấn: Quán trên hai vú có chữ Đát la TRĀ Tra Dùng Kim Cương Phộc vỗ ba lần để mở.

Mật Ngôn là:

Án, phộc nhật la, mãn đà, đát la tra.

Tiếp kết Nhập Trí Tự Ấn: Ở trước mặt mình quán một hoa sen hồng, trên hoa có chữ SA SA. Dùng Kiên Cố Phộc, đưa thiền trí hai ngón cái vào bên trong, tiến lực hai ngón trỏ vịn nhau. Tưởng nhớ chữ ấy ở trong nội tâm.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, phộc nhật la, phệ xá, ác.

Tiếp kết Hạp Trí Tự Ấn: Chẳng thay Ấn trước, tiến lực hai ngón trỏ trụ ở lưng thiền trí hai ngón cái, tưởng đóng cửa tâm tâm môn.

Mật Ngôn là:

Án, phộc nhật la, mẫu sắt trí, hàm.

Tiếp kết Tịch Trừ Kết Giới Ấn: Giới Phương hai ngón vô danh, bên phải đè bên trái, cùng giao nhau bên ngoài, nhẫn nguyện hai ngón giữa cùng đứng thẳng dựa nhau, dùng tiến lực hai ngón trỏ móc giới phương hai ngón vô danh thiền trí hai ngón cái vịn đầu đàn tuệ hai ngón út.  

Mật Ngôn là:

Án, a mật lật đổ ná bà phộc, hồng phán tra.

Đưa Ấn này xoay bên trái ba vòng để tịch trừ mọi điều bất thiện, xoay bên phải ba vòng tùy ý xa gần dùng để kết giới.

Tiếp kết Tam Ma Địa Ấn: Hai Vũ hai bàn tay ngửa lên cài chéo nhau. Tiến lực hai ngón trỏ cùng chung lưng hợp cứng. Thiền trí hai ngón cái vịn đầu tiến lực hai ngón trỏ rồi đặt trên già bán già, toàn già.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, tam ma địa, bát ná minh, hiệt lị.

Hít vào thở ra, mỗi mỗi biết rõ ràng.

Quán trong hư không có vô lượng Chư Phật cùng một lúc búng tay cảnh giác Hành Giả, rồi bảo rằng: Này ngươi! Thế nào là thành Vô Thượng Giác?

Chẳng biết Pháp Yếu về Tướng Báu của Chư Phật.

Lúc đó Hành Giả nghe lời cảnh giác xong, bạch Phật rằng: Thế nào gọi là chân thật?

Nguyện xin Như Lai vì con mà giải nói Bấy giờ Chư Phật bảo Hành Giả rằng: Lành thay! Lành thay! Ngươi có thể thốt ra câu hỏi này.

Ngươi tưởng bên trong tâm có chứa chữ ác trong suốt ở trái tim tụng Mật Ngôn là:

Án, tức đa bát la để vị đăng, ca lỗ nhĩ.

Nên yên lặng tụng một biến. Liền tưởng là vành trăng như ở trong sương mù.

Vì muốn cho vành trăng đó được trong sạch, nên tụng Mật Ngôn là:

Án, mạo địa tức đa, mẫu đát bả ná, dạ nhĩ.

Tụng xong, chân thật quán vành trăng tâm rất là trong sạch như khoảng trống rộng lớn của Hư Không không có vết ngăn che. Lại ở vành trăng tâm tưởng có một hoa sen.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, để sắt tra, phộc nhật la, bát ná ma.

Tưởng hoa sen đó và vành trăng lớn dần dần tràn ngập khắp pháp giới, ngang bằng với hư không.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, tát phả la, phộc nhật la, bát ná ma.

Trong hoa sen nở lớn ấy phóng tỏa vô lượng ánh sáng. Tùy theo ánh sáng tuôn ra vô lượng vô biên cõi Cực Lạc Thế Giới Sukhavatī, mỗi một Thế Giới Diệu Bảo Trang Nghiêm đều có Đức Quán Tự Tại Vương Như Lai và Thánh Chúng trước sau vây quanh. Quán như vậy xong, thu liễm hoa sen nhỏ dần.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, tăng hạ la, bát ná ma.

Tất cả Thế Giới, Chư Phật Như Lai như vậy tùy theo hoa đều thu nhỏ dần ngang bằng với Bản Thân. Liền biến thân của mình thành thân của Vô Lượng Thọ Phật, có màu pha lê hồng, phóng tỏa ánh sáng to lớn. Kết Tam Ma Địa Ấn, ngồi trên tòa Kim Cương Liên Hoa Vajra padmāsana.

Tưởng tự thân của Hành Giả là Như Lai xong, lại sợ bị tán loạn mà lui mất. Tiếp tác Gia Trì Ấn để gia trì. Kiên Cố Phộc, co tiến lực hai ngón trỏ như cánh sen, kèm thẳng thiền trí hai ngón cái ấn lên trái tim, vầng trán, cổ họng, đỉnh đầu. Tùy theo nơi ấn, tưởng có chữ Hiệt Lị HRĪḤ.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, phộc nhật la đạt ma hiệt lị.

Tiếp kết Quán Đỉnh Ấn: Liên Hoa Hợp Chưởng, tiến lực hai ngón trỏ cùng co như hình báu, dựng thẳng đàn tuệ hai ngón út sao cho cách xa nhau, đặt ở trên trán.

Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, la đát na, tỳ tru già, tát phộc hàm, hiệt lị, đát lạc.

Tiếp kết Liên Hoa Man Ấn: Dùng Ấn trước, từ vầng trán chia hai tay vòng đến sau đỉnh, kết Liên Hoa Quyền như thế cột buộc tràng hoa. Từ từ đưa về phía trước rồi hạ xuống rải tán.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, la đát na, ma lệ, hàm.

Tiếp kết Giáp Trụ Ấn: Kết Liên Hoa Quyền, trước sau quấn quanh thân như phép mặc áo giáp.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, a bà gia, bát ná ma, ca phộc chế, mãn đà, la khất sái hàm, hồng hám.

Tiếp Kết Hoan Hỷ Ấn: Liên Hoa Hợp Chưởng, hơi vỗ ba tiếng.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, đổ sử dã, hộ.

Lại ở trước mặt quán Thế Giới An Lạc Sukha vatī có Lưu Ly Vaiḍurya làm đất, biển sữa công đức. Ở trong biển ấy quán chữ Hiệt Lị HRĪḤ biến thành hoa sen hé nở vi diệu. Liền biến hoa ấy thành Quán Tự Tại Vương Như Lai với sắc tướng trang nghiêm như quán thân lúc trước.

Tiếp kết Liên Hoa Câu Ấn: Liên Hoa Hợp Chưởng, tiến lực hai ngón trỏ như móc câu.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná mang cú xả, hồng nhạ.

Tiếp kết Liên Hoa Sách Ấn: Liền dùng Ấn lúc trước, tiến lực hai ngón trỏ như cái vòng hoàn.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, mẫu già bá xả, hồng.

Tiếp kết Liên Hoa Tỏa Ấn: Phù Dung Hợp Chưởng, tiến ngón trỏ phải thiền ngón cái phải vịn nhau, lực ngón trỏ trái trí ngón cái trái cũng thế, cùng móc nhau thành cái khoá tỏa.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, tắc bố tra, hàm.

Tiếp kết Liên Hoa Linh Ấn: Dùng Liên Hoa Hợp Chưởng, co thiền trí hai ngón cái vào trong, tiến lực hai ngón trỏ như cái vòng.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, phệ xá, ác.

Tiếp kết Liên Hoa Bộ Bách Tự Minh Mật Ngôn, dâng vật khí chứa Át Già Ārgha. Dùng Uất Kim, Long Não cùng hòa với nước thơm mà làm cúng dường.

Tụng Bách Tự Minh Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma tát đát phộc tam ma gia, ma nỗ bá la gia. Bát ná ma tát đát phộc, để vĩ nỗ ba, để sắt xá, niết lị trụ minh bá phộc. Tô đổ sái dụ minh bá phộc. A nỗ la khất đổ minh bá phộc. Tô báo sử dụ minh bá phộc. Tát phộc tất địa mị bát la tả dã. Tát bà yết ma tô giả minh, tức đa, thất lợi dược, cú lô hồng. Ha ha ha ha hô. Bạc già phạm, tát bà đát tha nghiệt đa, bát ná ma, mang minh muộn già. Bát ná minh bá phộc. Ma ha tam ma dã, tát đát phộc, ác.

Tiếp kết Liên Hoa Nội Cúng Dường Hy Hý Ấn: Phù Dung Hợp Chưởng, kèm dựng thẳng thiền trí hai ngón cái.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, la tế, hô.

Tiếp kết Liên Hoa Man Ấn: Liền dùng Ấn trước, hai cánh tay cùng duỗi.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, ma lệ, đát la tra.

Tiếp kết Liên Hoa Ca Ấn: Dùng Phù Dung Hợp Chưởng, co trụ các ngón, từ rốn trở lên đến miệng mới bung tán.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, nghi đế, nghi.

Tiếp kết Liên Hoa Vũ Ấn: Dùng Phù Dung Hợp Chưởng, chuyển xoay bên trái phải rồi bung tán trên đỉnh đầu.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma nễ lị đế, khất lị tra.

Tiếp kết Liên Hoa Ngoại Tứ Cúng Dường bốn vị cúng dường bên ngoài của Liên Hoa Bộ Thiêu Hương Ấn: Liên Hoa Hợp Chưởng, hạ xuống bung tán giống như thế đốt hương.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, độ bế, ác.

Tiếp kết Liên Hoa Tán Hoa Ấn: Liên Hoa Hợp Chướng, từ phía trước mặt bung tán lên trên giống như thế bung rải hoa.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, bổ sắt bế, án.

Tiếp kết Liên Hoa Đăng Ấn: Liên Hoa Hợp Chưởng, dựng Thiền Trí hai ngón cái cùng cách lìa nhau.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, nễ bế, nễ.

Tiếp kết Liên Hoa Đồ Hương Ấn: Mười Độ mười ngón tay tác Liên Hoa Hợp Chưởng, để ngang trái tim phân tán như thế bôi xoa hương.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, bát ná ma, nghiễn đề, ngược.

Tiếp kết Căn Bản Ấn: Kiên Cố Phộc, để nhẫn nguyện hai ngón giữa dính nhau như hình cánh sen.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, lộ kế thập phộc la, la nhạ, hiệt lị.

Tiếp kết Căn Bản Ấn, tụng Minh bảy biến xong. Sau đó cầm xâu chuỗi bằng hạt sen, tương ứng niệm tụng. Ở trong bốn thời, tùy sức mà làm. Nếu lúc muốn ngưng thì trùng kết. Kết lần nữa Căn Bản Ấn, lại tụng bảy biến Căn Bản Đà La Ni.

Tiếp kết tám Cúng Dường Ấn.

Sau đó Phát Khiển Bản Tôn.

Phát Khiển Ấn: Dùng Căn Bản Ấn lúc trước, từ rốn đưa đến mặt rồi bung tán.

Chắp tay ở trên đỉnh đầu, tưởng Quán Tự Tại Vương Như Lai quay trở về Bản Cung.

Tụng Mật Ngôn là:

Án, phộc nhật la, bát ná ma, mục.

Phát Khiển Bản Tôn xong. Tùy ý phát nguyện.

Lại dùng Giáp Trụ Ấn Hộ Thân.

Dùng Mã Đầu Minh Vương Kết Giới Ấn xoay bên phải để giải giới. Tùy ý kinh hành.

Đến các Tịnh Xứ đọc Kinh Đại Thừa: Đại Bát Nhã Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Niết Bàn Kinh với Lăng Già Kinh…

 Đi, đứng, ngồi, nằm thường niệm Bản Tôn không để cho gián đoạn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần