Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Mười Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI

QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

Pháp Sư Cầu Na Bạt Ma, Đời Tống  

PHẦN MƯỜI MỘT  

Lúc ấy trong không trung có vị Thiên Thần tên Phụ Đa ẩn thân và lên tiếng: Ta thấy Đức Mâu Ni tâm ý an tịnh, hỷ xả, không chút oán hận. Chúng quân ma khởi lên lòng thâm độc phá hoại mà Ngài vẫn không oán hờn. Các loại quỷ ác ngu ngốc, chúng ngươi chỉ tự làm mình mệt nhọc, hoàn toàn không được lợi gì cả.

Nay nên bỏ tâm giận dữ toan phá hoại Ngài bởi vì miệng các ngươi dù có thể thổi lay động núi Tu Di, có thể làm cho lửa lạnh đi, nước nóng lên, đất cứng bị mềm nhão, nhưng các ngươi không thể hại Bậc Bồ Tát đã trải qua nhiều kiếp tu tập thiện quả, Thiền định chân chánh, tinh cần tu hành các pháp môn, nên trí tuệ an tịnh, sáng suốt, bốn công đức ấy không thể diệt trừ được.

Nếu không trải thân qua vô lượng khổ khó ấy thì không thể đạt được quả Chánh Giác. Như ngàn mặt trời soi sáng tất diệt hết bóng tối, dùi cây được lửa, đào đất được nước, chăm lo tu tập các pháp thì có thể đạt được điều mong muốn. Chúng sinh ở đời đang bị chìm đắm trong ba độc không có người cứu vớt.

Vì lòng từ bi, Bồ Tát tìm thuốc trí tuệ vì đời mà trị bệnh, các ngươi sao lại quấy phá như vậy?

Chúng sinh trong thế gian mê mờ, phiền não, vô trí, tà kiến.

Nay Ngài mở bày pháp nhãn, dắt dẫn chúng sinh để họ tu tập theo chánh đạo, sao các ngươi lại quấy rối Bậc Đạo Sư?

Đó là điều không thể làm được, giống như nơi đồng trống mà xem thường người dẫn đường.

Chúng sinh bị rơi vào đêm tối mờ mịt, hoang mang không biết đường nơi đâu, Bồ Tát vì họ mà thắp đèn trí tuệ lớn, các ngươi sao lại muốn thổi tắt đi?

Chúng sinh bị chìm đắm trong bể sinh tử, Bồ Tát vì họ mà tạo thuyền trí tuệ sao các ngươi lại muốn làm cho thuyền đắm?

Bồ Tát lấy nhẫn nhục làm mầm, tâm kiên định làm rễ, dùng chánh pháp vô thượng để đạt quả vị Phật đà, sao các ngươi lại chặt phá?

Tham, sân, si trói buộc chúng sinh, Bồ Tát tu tập khổ hạnh vì muốn giải thoát cho họ. Hôm nay Ngài quyết định ngồi kiết già Thiền định nơi cội cây này để thành đạo vô thượng, nơi ấy chính là tòa Kim Cang của Chư Phật quá khứ, các vùng đất khác dù rung chuyển nhưng vùng đất ấy vẫn không rung động. Ngài đã nhập vào định nhiệm mầu, chẳng người nào có thể lay chuyển được. Ma Vương, ngươi phải sinh lòng vui mừng, dứt tâm kiêu căng, sửa đổi suy nghĩ để phụng sự Ngài.

Ma Vương nghe những lời ấy, lại thấy Bồ Tát vẫn điềm nhiên nên xấu hổ không còn lòng kiêu mạn, theo lời khuyên trở về cung ma. Chúng quân ma tan rã, lòng đầy buồn bã, khốn khổ, không còn chút uy vũ nào, khí giới bỏ rơi ngổn ngang khắp rừng núi.

Khi ác ma đi rồi, Bồ Tát tâm yên tĩnh, vắng lặng không động. Trên Trời không một bóng mây, gió ngừng thổi, vầng tịch dương cuối ngày như sáng lên gấp bội, bóng nguyệt hằng vừa ló dạng nhẹ soi khắp nơi, các chòm sao Trời như rực rỡ hẳn, tất cả mọi thứ u ám, tối tăm không còn làm trở ngại. Trên hư không, Chư Thiên tung hoa đẹp xuống như mưa, tấu nhạc cúng dường Bồ Tát.

Vào đêm mồng bảy tháng hai, Bồ Tát dùng sức từ bi hàng phục Ma Vương xong liền phóng hào quang lớn và nhập định suy nghĩ về chân lý. Từ trong các pháp thiền định tự tại, Bồ Tát biết được trong vô lượng kiếp ở quá khứ, bỏ thân mạng ở chỗ này sinh đến chỗ kia và đã tạo những nghiệp thiện ác gì, cha mẹ họ hàng, giàu nghèo, sang hèn, thọ yểu và tên họ như thế nào đều biết rõ.

Sau đó Bồ Tát liền khởi lòng đại bi đối với chúng sinh suy niệm: Tất cả chúng sinh không có người cứu vớt nên luân hồi trong năm đường không biết bến đâu. Năm đường ấy đều giả dối, không chân thật, thế mà chúng sinh ở trong ấy cứ mãi đùa giỡn trong khổ lạc. Bồ Tát nghĩ như thế cho đến hết canh một.

Vào lúc giữa đêm, Bồ Tát đạt được Thiên nhãn minh. Bồ Tát xem xét mọi việc trong thế gian đều thấy rất rõ ràng như tự thấy hình dung mình trong gương. Ngài thây vô số chúng sinh với nhiều chủng loại, chết ở đây sinh ở kia, tùy theo nghiệp thiện ác mà thọ quả báo khổ vui, thấy chúng sinh bị trừng phạt trong địa ngục như đổ nước đồng sôi vào miệng.

Hoặc ôm cột đồng nóng đỏ, hoặc nằm giường gai, hoặc bị rang đốt trong chảo sắt, hoặc bị nướng trên lửa, hoặc bị cọp beo, lang sói ăn thịt, có người nấp dưới bóng cây để trốn lửa nhưng những lá cây khi rụng xuống lại biến thành đao kiếm cắt đứt thân thể.

Hoặc bị cưa búa cưa chặt tứ chi, hoặc bị ném vào dòng sông lửa đầy tro bụi, hoặc bị ném vào hầm phân uế… chịu bao nhiêu thứ khổ nhưng do nghiệp báo phải chết đi sông lại để chịu cảnh ấy.

Bồ Tát thấy những hình phạt ấy rồi, quán niệm: Những chúng sinh ấy vốn vì cái vui ở thế gian nên tạo các nghiệp ác, nay gặp quả báo thật là đau khổ. Nếu người nào thấy được quả báo như thế thì sẽ không có ý làm việc ác.

Bồ Tát lại xem xét cõi súc sanh, thấy rõ các loại súc sanh tùy theo giống loài mà phải mang những hình dáng xấu xa, có loài xương thịt, gân sừng, răng lông bị người giết thịt hay bắt chuyên chở nặng nề, đói khát thiếu thôn không ai biết đến, hoặc bị xỏ mũi, hoặc bị cột đầu, thường cung cấp thịt cho người, lại cùng đồng loại ăn thịt lẫn nhau, chịu bao nhiêu nỗi khổ như thế.

Bồ Tát thấy thế sinh tâm đại bi liền nghĩ: Những chúng sinh ấy luôn phải lấy thân thể, sức lực để phục vụ cho con người và còn bị đánh đập đói khát thống khổ đều do bao nghiệp dữ nên chịu quả báo như thế.

Bồ Tát lại xem xét tiếp cõi ngạ quỷ, thấy chúng thường ở những nơi tối tăm, chưa từng thấy ánh sáng mặt trời, mặt trăng và cũng không trông thấy nhau, phải mang thân thể lớn dài, bụng to như Thái sơn nhưng cổ lại nhỏ như cây kim, trong miệng thường có lửa bốc cháy, luôn luôn bị đói khát hành hạ đến ngàn muôn vạn năm không nghe được tiếng ăn.

Nếu gặp Trời mưa thì hạt nước biến thành hạt ngọc lửa, nếu vào nơi sông biển ao hồ thì thấy nước biến thành nước đồng sôi, tro bụi mịt mù, thân thể cử động bước đi tạo ra tiếng như người kéo năm trăm cỗ xe, từng đoạn thân thể đều có lửa đốt.

Bồ Tát thấy ngạ quỷ chịu bao nhiêu điều khổ như thế nên khởi tâm đại bi suy nghĩ: Những chúng sinh đó vốn có tính keo bẩn, chỉ lo chứa của cải, không biết bố thí nên nay phải chịu những tội báo này. Nếu người nào thấy được nỗi thống khổ ấy chắc sẽ phát tâm bố thí, không còn keo kiệt. Nếu như không có tài sản, họ cũng phải cắt thịt bố thí.

Bồ Tát lại quan sát ở nhân gian, thấy con người bắt đầu từ thân trung ấm theo dục mà vào thai, cha mẹ hòa hợp do niệm điên đảo sinh ra tâm ái, tức là lấy điều bất tịnh làm thân mình. Khi đã vào thai ở trong bụng mẹ, thân thể bị đun nóng như nỗi khổ ở địa ngục, đến đủ mười tháng mới sinh ra.

Lúc mới sinh, được người khác bồng ẵm, xúc chạm thô rít nên đau đớn, thống khổ như bị đao gươm châm chích, chẳng bao lâu lại đến già chết, rồi lại sinh ra làm trẻ con … cứ thế trôi lăn trong năm nẻo không thể tự tỉnh.

Sau khi nội quán, Bồ Tát khởi tâm đại bi, suy nghĩ: Tất cả chúng sinh đều có nỗi khổ như thế nhưng tại sao họ cứ ở trong cảnh ấy tham đắm các món dục cho đó là vui, không thể dứt trừ nguồn cội điên đảo.

Cuối cùng Bồ Tát quán sát Cõi Trời, thấy các vị Thiên Tử thân thể trong sạch, không bị bụi nhơ, như ngọc lưu ly sáng láng, đôi mắt sạch trong không bụi. Có vị trụ ở đỉnh núi Tu Di, hoặc ở bốn phía núi Tu Di, hoặc ở giữa hư không, lòng thường vui vẻ không có mối lo, thường tấu nhạc Trời để làm vui, không biết ngày đêm, khắp nơi bốn phương nơi nào cũng tuyệt diệu.

Bồ Tát thấy Chư Thiên ở phương Đông mê đắm nhiều năm, quên sự chuyển đời, Chư Thiên ở phương Tây cũng mãi mê thọ lạc, ngày qua tháng lại không nghĩ đến việc thác sinh, các phương Nam, phương Bắc đều như thế. Ăn uống, áo quần hễ nghĩ tới là có ngay. Tuy có những điều vừa ý như thế nhưng cũng bị lửa dục nung nấu.

Đến lúc phước ở Cõi Trời hết thì năm tướng chết hiện ra: Một là hoa trên đầu héo, hai là mắt nháy, ba là ánh sáng trên thân không còn, bốn là dưới nách mồ hôi xuất, năm là tự nhiên rời khỏi tòa ngồi của mình. Các quyến thuộc nhìn thấy năm tử tướng ấy hiện ra sinh tâm quyến luyến. Vị Thiên Tử ấy tự thấy thân mình hiện năm tử tướng lại thêm các quyến thuộc quyến luyến nên ngay khi đó sinh lòng đau khổ.

Bồ Tát thấy các Thiên Tử như vậy nên khởi tâm đại bi suy nghĩ: Các vị Thiên Tử vốn tu tập ít điều thiện nên được thọ hưởng lạc thú Cõi Trời nhưng khi sắp hết phước cũng vẫn sinh khổ não, mạng chung bỏ thân Trời vẫn có thể đọa vào ba đường ác. Mục đích tu là để cầu quả báo vui, nhưng họ được rồi lại vẫn ít vui nhiều khổ, giống như người đói ăn thức ăn độc, trước có thể ngon miệng nhưng sau đó là tai họa.

Bậc trí lại ham cái vui ấy sao?

Chư Thiên ở Cõi Sắc và Vô Sắc Giới thấy thọ mạng lâu dài liền cho là có vui lâu dài, đến khi thấy tướng suy hoại cảm thấy đau khổ, sinh ra tà kiến phỉ báng, cho là không có nhân quả vì thế mà bị trôi lăn trong ba đường chịu đủ mọi nỗi khổ.

Bồ Tát dùng thiên nhãn xem khắp năm đường khởi tâm từ bi suy nghĩ: Trong ba cõi không một chút vui suy nghĩ như thế đến tận nửa đêm.

Sang canh thứ ba, Bồ Tát xem xét chúng sinh do nhân duyên gì mà có già chết?

Và biết rõ chính do có sinh nên có già chết, nếu xa lìa sinh thì không có già chết. Lại hiện tượng sinh ấy không phải từ Trời sinh xuống, không phải tự nhiên sinh mà do từ nhân duyên sinh ra. Do tham dục với sắc và Vô Sắc nên sinh ra nghiệp.

Bồ Tát lại quán nghiệp trong Tam hữu từ đâu sinh, liền biết từ Bốn thủ sinh ra. Cứ thế Bồ Tát nội quán thấy rõ bốn thủ từ ái sinh, ái từ thọ sinh, thọ từ xúc sinh, xúc từ lục nhập sinh, lục nhập do danh sắc sinh, danh sắc từ thức sinh, thức từ hành sinh, hành từ vô minh sinh ra.

Nếu diệt được vô minh thì diệt được hành, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết, lo buồn, sầu thương diệt.

Cứ như thế Bồ Tát nội suy, quán niệm mười hai nhân duyên theo hai chiều thuận, nghịch đến canh ba thì phá được vô minh, vầng thái dương vừa hiện, Bồ Tát tìm được ánh sáng trí tuệ, tâm đoạn trừ hoàn toàn tập khí phiền não chướng ngại và thành Bậc nhất thiết chủng trí.

Khi ấy Như Lai suy nghĩ về tám Thánh đạo chân chánh, là con đường mà ba đời Chư Phật đã đi để đến Niết Bàn, nay Ngài đã thể đạt được, thành tựu trí tuệ vô ngại. Lúc ấy toàn mặt đất hiện ra mười tám tướng chấn động, khắp nơi đều sạch trong, không có một mảy bụi trần, trống Trời tự phát ra tiếng, gió thơm thổi lên êm ái mát mẻ, mây lành nhiều sắc tuôn mưa cam lộ, hoa quả ở trong các khu lâm viên bỗng nẩy lộc, kết trái dù không phải mùa.

Từ Trời cao rơi xuống các loại hoa quý như hoa Mạn Đà La, Đại Mạn Đà La, Mạn Thù Sa và Đại Mạn Thù Sa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly… hoa sen bằng bảy báu phủ đầy quanh cây Bồ Đề đến ba mươi sáu do tuần.

Cùng lúc đó Chư Thiên tấu thiên nhạc, đốt hương, ca hát, khen ngợi, tay cầm bảo cái, tràng phan hiện ra đầy khắp hư không mà cúng dường Đức Như Lai. Tám bộ chúng Rồng, Thần… đều cúng dường như thế.

Ngay lúc ấy tất cả chúng sinh đều khởi lòng từ yêu thương, không có ý tưởng giận dữ làm hại, vui mừng phấn chấn như thấy được Thánh tích, không sợ hãi mà ôn hòa, không kiêu căng, không keo kiệt, ganh tị dối trá.

Các Thiên Tử ở Cõi Trời Ngũ Tịnh cư, nơi đã xa lìa các trạng thái tâm hỷ lạc cũng đều vui mừng không kiềm chế được. Nỗi thống khổ ở địa ngục tạm thời giảm bớt, chúng sinh ở cõi đó đều khởi sinh niệm hoan hỷ, tất cả loài súc sanh hay ăn thịt nhau bỗng không còn lòng ác, ngạ quỷ no đủ không còn đói khát.

Những nơi u ám của Thế Giới, nơi mặt trời, mặt trăng chưa bao giờ chiếu tới nay bỗng sáng tỏ, chúng sinh trong các cõi ấy thấy được nhau đều thắc mắc tại sao nơi đây bỗng nhiên có chúng sinh. Vị Pháp Vương Đại Thánh xuất hiện khai sáng cho đời, dùng ánh sáng chánh pháp phá bỏ màn phi pháp u tối, làm cho mọi nơi đều sáng rỡ.

Vương tổ Cam Giá bỏ ngôi học đạo đạt được ngũ thông, do tu thập thiện nên được sinh lên Trời, lúc ấy cũng dùng thần thông đến bên cội Bồ Đề, từ hư không vui mừng chắp tay khen ngợi: Trong dòng họ Cam Giá của chúng ta, có người diệt được phiền não thành Bậc nhất thiết chủng trí, làm con mắt cho thế gian.

Thật là lạ lùng đặc biệt! Tất cả chúng sinh đều hoan hỷ tột độ, chỉ có Ma Vương là ôm lòng phiền muộn.

Bấy giờ Đức Như Lai trong bảy ngày vẫn ngự tại cội Bồ Đề tư duy nội quán: Ta ở tại đây diệt hết phiền não, những việc phải làm đã làm xong, bản nguyện hoàn thành. Pháp mà ta chứng được thật là vi diệu, chỉ có Phật và Phật mới hiểu được.

Toàn thể chúng sinh trong đời ngũ trược bị che khuất bởi tham muốn, giận dữ, ngu si, tà kiến, kiêu mạn, dua nịnh, phước đức mỏng manh, căn trí trì độn, không có trí tuệ làm sao có thể hiểu được pháp mà ta đã chứng. Nếu nay ta vì họ mà chuyển pháp luân chắc họ sẽ mê mờ, nghi ngờ, không thể tin theo rồi sinh chê bai mà bị sa vào đường ác chịu bao thống khổ, vậy ta nên yên lặng mà vào Niết Bàn.

Khi đó Đức Như Lai nói kệ:

Đường Thánh thật khó đi

Quả trí tuệ khó đạt

Ta trong khó khăn ấy

Mọi việc làm đã xong

Trí tuệ ta đạt được

Là vi diệu đệ nhất

Tánh chúng sinh trì độn

Chìm đắm trong mê mờ

Trôi theo dòng sinh tử

Không thể trở về nguồn

Các loài đều như thế

Làm sao cứu vớt được.

Bấy giờ vị Đại Phạm Thiên thấy Như Lai đã chứng Thánh quả mà yên lặng không chuyển pháp luân, lòng buồn rầu suy nghĩ: Thế Tôn đã từng vô lượng kiếp vì chúng sinh ở lâu dài trong sinh tử, lìa bỏ ngôi vị, vợ con, cho đến đầu, mắt, não, tủy, chịu bao khổ sở, nay nguyện đã thành, chứng Bậc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, sao lại lặng yên không chuyển pháp luân, nếu thế chúng sinh sẽ phải chìm mãi trong biển sinh tử.

Ta nay phải đến cầu xin Phật chuyển pháp luân. Nghĩ thế rồi, vị Phạm Thiên rời Thiên cung đến chỗ Đức Như Lai nhanh như khoảng thời gian một lực sĩ co duỗi cánh tay.

Đến nơi, Phạm Thiên cung kính chắp tay, lễ xuống chân Phật, nhiễu quanh trăm ngàn vòng rồi ngồi sang một bên chắp tay, quỳ bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, Ngài từ xưa đến nay từng ở mãi trong sinh tử bỏ cả thân đầu mắt để bố thí, chịu bao nỗi khổ, chỉ vì chúng sinh mà tu tập tất cả đức hạnh, nay đã thành đạo, sao Ngài lại lặng yên không chuyển pháp luân.

Chúng sinh đang chìm trong đêm dài sinh tử, rơi vào vô minh, thật khó biết khi nào ra khỏi, nhưng cũng có chúng sinh trong đời trước được gần gũi bạn lành, vun trồng các công đức nên có thể nghe pháp, nhận lãnh đạo Thánh, vậy xin Thế Tôn thương xót hãy vì những chúng sinh đó mà chuyển pháp luân.

Trời Đế Thích và Trời Tha Hóa Tự Tại cũng đến khuyến thỉnh Như Lai hãy vì chúng sinh mà chuyển pháp luân.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần