Phật Thuyết Kinh Nhất Thiết Như Lai đại Bí Mật Vương Vị Tằng Hữu Tối Thượng Vi Diệu đại Mạn Noa La - Phẩm Hai - Phẩm Quán đỉnh

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thiên Tức Tai, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH NHẤT THIẾT NHƯ LAI

ĐẠI BÍ MẬT VƯƠNG VỊ TẰNG HỮU

TỐI THƯỢNG VI DIỆU ĐẠI MẠN NOA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống  

PHẨM HAI

PHẨM QUÁN ĐỈNH  

Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con tự biết mình viên mãn phước đức thù thắng. Đối với nghĩa Mạn Noa La vi diệu, nay đã được rồi.

Lại nữa, Người nào mới có thể nhiếp thọ để làm đệ tử?

Lại đệ tử sinh ở nước nào mới có thể nhiếp thọ?

Đối với bốn Đại Tính: Sát Đế Lợi K atriya, Bà La Môn Brāhma a, Tỳ Xá Vaiśya, Thủ Đà Śūdra, bốn tính như vậy có thể nhiếp thọ thời tính nào là hơn hết?

Đức Phật bảo Kim Cương Thủ: A Di Đà Phật Amitābha buddha, Tỳ Lô Giá Na Phật Vairocana buddha mới là Bí Mật Pháp Chủ Đại A Xà Lê trong ba cõi: Không có tướng, không có tính, chẳng sinh chẳng diệt. Tuy trụ bí mật nhưng không có tướng bí mật.

Sau đó A Xà Lê cũng tu như vậy, hiểu thấu rõ ràng. Nếu hiểu thấu rồi mới là trụ tam Ma Địa Samādhi. Kim Cương Liên Hoa Chủ là bậc có đủ tâm đại bi, có đại lực.

Này Kim Cương Thủ! Nay ta nói Quốc Độ, phương sở, nơi sinh của đệ tử kia.

Nếu người thuộc chủng tính Sát Đế Lợi hoặc Bà La Môn sinh tại nước Xá Vệ Śrāvastī, nước Ma Già Đà Magadha, nước Chi Na Cīna, nước Tam Ma Đát Tra, nước Khư Nễ Dã, nước La Trà, nước Nễ Bát La, nước Tổ Ni Gia, nước A Na Đa, nước Câu Tát La Kośala, nước Cụ Ni Ca, nước Ma La Gia Malaya, nước Nại La Vĩ Noa. Người sinh ở các nước như vậy đều có thể nhiếp thọ.

Lại nếu không có người trong các nước như trên thì người ở nước Sư Tử Si halā với người của tất cả nước cũng có thể nhiếp thọ.

Lại người của nước Cát La Đa cũng được nhiếp thọ vì duyên trong nước ấy từng sinh ra bậc Mâu Ni tối thượng.

Như các nước bên trên, hoặc người sinh trong chủng tính Sát Đế Lợi, Bà La Môn… nếu y theo A Xà Lê vâng nhận tu hành thì hành nhân ấy ắt được viên mãn.

Lại vị A Xà Lê có dung mạo vui vẻ, đoan chính, viên mãn… có tâm từ bi, tâm thanh tịnh, niềm tin chắc thật không có dối trá, giáng phục các căn, ít tham lam, ít ham muốn dục, đủ đại biện tài. Lại có trí thâm sâu, nói lời dịu dàng tốt lành, cũng lại trong sáng.

Tính chẳng keo kiệt, ưa thích bố thí, không có gang tỵ, không có sợ hãi, xa lìa ngã mạn Ātma māna, thường vui cúng dường bậc Đại A Xà Lê với chúng Hiền Thánh.

Lại hay diễn nói pháp chân như Tathatā, thường thực hành hạnh Chân Ngôn Mantra caryā, chẳng nói điều tốt đẹp của mình, luôn khen ngợi đức độ của người khác. Đối với Tất Địa Siddhi thì chỗ đã tu, chỗ đã làm… tất cả viên mãn. Đối với đệ tử cũng chẳng nghi ngờ, chế diễu.

Lại đối với đệ tử không có chỗ hy vọng, dùng tâm đại bi cáo bạch với Hiền Thánh, khiến các đệ tử y theo hạnh tương ứng, được vào tất cả Mạn Noa La. Lại khiến đệ tử y theo Nghi Quỹ, nhân quả tương ứng mà được giải thoát. Lại đem pháp của Chân Ngôn, Ấn Khế, Chân Như trao truyền cho đệ tử.

Đệ Tử thưa bạch với A Xà Lê rằng: Làm sao đạt được pháp của Chân Ngôn, Ấn Khế, Chân Như này?

A Xà Lê nói: Lành thay! Lành thay! Phật Tử hãy nghe cho kỹ! Đức Phật nói Chân Ngôn này từ Trí viên mãn của chân như, dùng phương tiện tuệ mà đưa ra. Ở trong ba cõi tạo hóa thân Phật Nirmā a kāya buddha, hiện sức tinh tiến gắng gỏi ví dụ hiển bày dạy bảo nghĩa sâu xa tốt lành ở chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối.

Dùng Tam Ma Địa Samādhi y theo Kim Cương Liên Hoa Hạnh Giáo, nhóm Kim Cương Tát Đỏa Vajra satva, tộc Thích Ca śākya của ta vì thương xót tất cả hữu tình, làm bậc Đại A Xà Lê.

Nay ở trong Tộc Kulāya này thành tựu Chân Ngôn Đà La Ni: Một trăm hoặc ba trăm, tùy theo chỗ yêu thích, y theo sức tương ứng của chân như mà được thành tựu. Có thể dùng sự viết chép trao truyền cho đệ tử trì tụng, tu hành, lợi lạc hữu tình khiến cho chẳng đoạt tuyệt.

Đệ Tử được A Xà Lê trao truyền dạy bảo xong, lễ bàn chân của A Xà Lê… nên đem vàng, bạc, châu báu với voi, ngựa… cho đến cả thân của mình đều thành tâm phụng hiến A Xà Lê với Hiền Thánh trong Mạn Noa La.

Bấy giờ A Xà Lê làm Kim Cương Tát Đỏa nói lời tương ứng là: Con thọ nhận pháp bí mật này. Thời A Xà Lê giúp niệm, chứng minh Già Đà.

Lúc đó Minh Chúng ấy tạo làm chứng này: Nay con họ tên y theo pháp phụng hiến: Vàng, bạc, châu báu với voi, ngựa… cầu xin việc … làm Cúng Dường Mạn Noa La.

Khi ấy A Xà Lê làm riêng quán đỉnh Mạn Noa La, khiến đệ tử ngồi Kiết Già trên tòa Sư Tử ở trong Mạn Noa La, tự kết Kim Cương Hợp Chưởng Ấn để ngang trái tim rồi trụ.

Thời A Xà Lê lại dùng Bản Tôn Minh Vương Chân Ngôn gia trì vào cái bình Át Già thứ nhất, an trí trong Mạn Noa La. Sau đó lại tụng Bản Tộc Tôn Tâm Chân Ngôn gia trì rồi cho quán đỉnh. Liền đem Ấn trước an trên đỉnh đầu với an trên cổ rồi cho quán đỉnh.

A Xà Lê lại xưng tên của đệ tử: Nay Ta đem Minh Vidya này trao cho họ tên… nguyện xin Hiền Thánh trong tất cả Mạn Noa La xót thương nhận lấy đệ tử lại đem việc mà ý đã mong cầu, tự xưng báo với Hiền Thánh.

A Xà Lê ấy lại kết Bản Tôn Căn Bản Ấn gia trì trên trán với trái tim của đệ tử, lại cho quán đỉnh, liền tụng Chân Ngôn mà cho quán đỉnh.

A Xà Lê nói: Ngươi từ nay về sau, hết thảy pháp quán đỉnh của tất cả thế gian, ngươi đều đạt được.

Lại dùng nghi thức của Kim Cương Quyền Vajra sa dhi, liền trao chày Kim Cương cho đệ tử quán đỉnh khiến thường thọ trì. Trước tiên đem chày Kim Cương đã trao, an trên trái tim của đệ tử rồi cho quán đỉnh. Lại an trên trán, tiếp theo an trên đỉnh đầu để cho quán đỉnh.

Như vậy quán đỉnh xong.

Vị A Xà Lê ấy bảo đệ tử rằng: Này thiện nam tử! Ngươi đã ở chỗ của tất cả Như Lai với tất cả Chấp Kim Cương mà được quán đỉnh.

Ngươi đã thù thắng, là xuất thế gian chân thật như được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Anuttarā samyaksa buddhi: Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Tiếp theo lại đem chày Kim Cương giao cho đệ tử rồi khiến thọ trì.

A Xà Lê nói: Ngươi nhận chày Kim Cương này, ngươi là người đã vào Kim Cương Tam Muội Vajra samādhi.

Đây thành chày Kim Cương tối thượng của tất cả Như Lai, ngươi luôn thọ trì sẽ được Trí Kim Cương tối thượng Trì Kim Cương Chân Ngôn là:

Án, tát lý phộc đát tha nga đa, tất địa phộc nhật la.

A Xà Lê truyền tam muội bí mật cho đệ tử, phát tâm rộng lớn chẳng được keo kiệt.

Tại sao thế?

Vì muốn khiến cho tất cả hữu tình được viên mãn Đại Trí.

Lại nếu có chúng sinh đối với A Xà Lê ngông cuồng sinh sự hủy báng thì ngươi nên ủng hộ A Xà Lê. Nếu có người đối với Pháp sinh lòng yêu thích thì có thể đem Kim Cương Bí Mật Tam Muội với Bí Mật Mạn Noa La Ấn mà trao truyền cho họ.

Lại A Xà Lê bảo đệ tử rằng: Ngươi có đủ tâm bồ đề, đối với Bí Mật Vương, nên chí tâm hộ trì.

Lại nữa, đệ tử như lúc trước được thọ nhận, mọi loại quán đỉnh tùy theo duyên xong, liền có thể đem Pháp quán đỉnh của năm Đức Phật mà cho quán đỉnh nghi thức quán đỉnh ấy là: Trước tiên nên ở chỗ của Mạn Noa La, bày biện hương, hoa, đèn, hương xoa bôi cùng với phan, lọng, mọi loại vật cúng dường.

Lại tất cả nghi thức chẳng được khuyết thiếu, sau đó khiến đệ tử chuẩn bị thân tâm tinh khiết rồi mới vào Mạn Noa La A Xà Lê ấy vì đệ tử làm các việc pháp, sau đó kết Bản Tôn Ấn, tụng Bản Tôn Chân Ngôn cho đệ tử quán đỉnh.

Bắt đầu là Trung Phương Tỳ Lô Giá Na Ấn:Tách mở hai ngón cái, hai ngón út, các ngón còn lại đều tưởng hơi co thì thành Ấn.

An trên đỉnh đầu của đệ tử, tụng bản Tôn Chân Ngôn cho quán đỉnh Chân Ngôn là:

Án, tát lý phộc đát tha nga đa, đạt lý di thấp phộc la, y nan tát lý phộc đát tha nga đa, đát phệ nẵng, tỳ săn tả, hác.

Đông Phương A Súc Phật, kết Kim Cương Tát Đỏa Ấn: Hai tay cùng cài chéo các ngón rồi nắm quyền, dựng đứng hai ngón giữa tưởng dính nhau như cây kim thì thành Ấn. An trên trán của đệ tử, liền tụng Chân Ngôn cho quán đỉnh.

Chân Ngôn là:

Án, tát lý phộc đát tha nga đa, nhạ noa nẵng, tỳ sắt kế noa, tỳ săn tả, hồng.

O sarva tathāgata Jñāna abhiaikā ā abhi i ca Hū.

Nam Phương Bảo Sinh Phật Ấn: Dùng Kim Cương Tát Đỏa Ấn lúc trước, co hai ngón giữa như hình báu. An trên lỗ tai phải của đệ tử, tụng Bản Tôn Chân Ngôn cho quán đỉnh.

Chân Ngôn là:

Án, tát lý phộc đát tha nga đa, tỳ sắt ca, la đát nẵng, tỳ săn tả, đát lãm.

O sarva tathāgata abhi aika ratna abhi i ca Trā.

Tây Phương Quán Tự Tại Vương Phật Ấn: Dùng Kim Cương Tát Đỏa Ấn lúc trước, co hai ngón giữa như cánh hoa sen thì thành Ấn. An phía sau đỉnh đầu của đệ tử, tụng Bản Tôn Chân Ngôn cho quán đỉnh.

Chân Ngôn là:

Án, tát lý phộc đát tha nga đa, đạt lý mA Tỳ sắt kế noa, tỳ săn tả, hứ lý.

Bắc Phương Bất Không Thành Tựu Phật Ấn: Dùng Kim Cương Tát Đỏa Ấn lúc trước, dựng thẳng hai ngón út, hai ngón giữa?

Hai ngón cái, tưởng dính nhau như cây kim thì thành Ấn. An trên lỗ tai trái của đệ tử, tụng Bản Tôn Chân Ngôn cho quán đỉnh.

Chân Ngôn là:

Án, tát lý phộc đát tha nga đa, tỳ sắt kế, ma hạ vĩ thấp phộc phộc nhật la, tỳ săn tả, ác.

Tiếp theo liền trao truyền Ngũ Phật Kế Man quán đỉnh. Như vậy được quán đỉnh xong, như đồng với nhất thiết trí trí gần gũi trao truyền quán đỉnh. Từ đây ban cho tên gọi, được xưng là Đại Thượng Nhân, hoặc xưng là A Xà Lê, đều nhận được sự cúng dường thắng diệu tối thượng của thế gian, tự tại khoái lạc.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần