Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Hai Mươi Bốn - Phật Nói Chư Phật đại đà La Ni đô Hội đạo Tràng ấn Phẩm - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN HAI MƯƠI BỐN

PHẬT NÓI CHƯ PHẬT ĐẠI ĐÀ LA NI

ĐÔ HỘI ĐẠO TRÀNG ẤN PHẨM  

TẬP HAI  

Nghiêm sức xong rồi. Tiếp theo, ở cửa Tây của Đạo Tràng, như đất cách phía Nam khoảng hai xích 2/3m đào làm cái hầm vuông vức, bốn mặt ngay ngắn đều dài hai xích, sâu cũng hai xích. Ngay giữa cái hầm ấy, lưu một thổ tâm, trên thổ tâm ấy dùng nước nóng thơm hòa với phân bò sạch… tô trét làm tòa hoa sen, đều nên gia ý tính toán tinh tế.

Lại dùng lụa tím làm một cái lọng, cũng dùng lụa đào mà làm một cái lọng. Dùng cây trúc làm cán của hai cái lọng ấy, cái cán đều dài chín xích 3m, nghĩ định cầm đi theo che cho A Xà Lê với đệ tử vào Đàn, dùng làm oai nghi đi lại, ra vào.

Ở Đạo Tràng ấy. Tiếp đến đất ở Đông Bắc, cách khoảng 2,3 Xích 2/3m hay 1m lài làm vị trí Thủy Đàn màu trắng rộng bốn khuỷu tay.

Tiếp theo, bên ngoài Đạo Tràng, hướng đến trong đất ở Tây Nam cũng được, lại lập riêng cái Đàn màu trắng rộng bốn khuỷu tay. Bốn góc của Đàn ấy dựng bốn cây phan, trên cây treo phan, chèn lấp lỗ hổng của cái cây, lau quét sạch sẽ, lại làm một biến đại kết giới pháp, tịch tĩnh Đạo Tràng, thắp đèn đuốc, đốt mọi loại hương.

Tiếp theo, ngày thứ năm: A Xà Lê đem hai đệ tử, sáng sớm tắm gội, mặc áo sạch mới, khiến một đệ tử cầm một cái bát bằng bạc chứa đầy bùn nước thơm, khiến một đệ tử cầm một cái bát bằng vàng chứa đầy phấn thơm với cầm một sợi dây dài nhỏ nhắn, đi theo A Xà Lê vào Đạo Tràng.

Đến chỗ của Đạo Tràng, A Xà Lê hành đạo một lần, khen ngợi, làm lễ, khiến đệ tử cầm bùn thơm vào Đàn, từ góc Đông Bắc dùng bàn tay xoa chà đất, như pháp xoa chà lúc trước, chờ cho nơi tô trét khô hẳn.

Tiếp theo, A Xà Lê cùng với đệ tử cầm nước phấn, nước thơm đều vào Đạo Tràng, lấy lượng khuỷu tay của sợi dây để biết dài ngắn. Từ góc Đông Bắc của Đàn hướng về góc Đông Nam giăng kéo gấp xác định xong các điểm để ghi nhớ. Tiếp theo, dời hướng về Tây Nam cũng chấm điểm để ghi nhớ. Tiếp theo, dời đến Tây Bắc cũng chấm điểm để ghi nhớ.

Đem sợi dây nhuộm phấn, sai một đệ tử cầm đầu sợi dây, quỳ ngồi nơi đất ở góc Đông Bắc của Đàn, mau giăng kéo sát đất. A Xà Lê cầm một đầu sợi dây, hướng về góc Đông Nam đến góc chính của Đàn là nơi chấm điểm trước tiên. Hai người cùng một lúc mau giăng kéo, sai một đệ tử vịn chính giữa sợi dây ghép ráp trên mặt đất.

Tiếp theo, đệ tử ở góc Đông Bắc đứng dậy, hướng đến góc Tây Nam ngồi, dựa theo lúc trước ghép ráp.

Tiếp theo, A Xà Lê ở góc Đông Nam đứng dậy, hướng đến góc Tây Bắc ngồi, dựa theo lúc trước ghép ráp.

Tiếp theo, đệ tử ở góc Tây Nam đứng dậy, hướng đến góc Đông Bắc ngồi, dựa theo lúc trước ghép ráp.

Tiếp theo, bên trong dây ghép ráp, ở đất lìa một khuỷu tay lại y theo lúc trước chấm điểm.

Như vậy, bốn góc đều chấm điểm ghi nhớ xong. Liễn ở trong phấn nhuộm sợi dây ghép ráp, pháp dùng như lúc trước.

Tiếp theo, lấy sợi dây tám khuỷu tay, gập chính giữa, ngay phương bên ngoài Đàn, là nơi chấm điểm trước tiên lại gập ngay chính giữa sợi dây một khuỷu tay, lại dùng sợi dây hai khuỷu tay từ chính giữa một phương của Đàn liệu lường chấm điểm. Hai bên trái phải của điểm chính giữa lại chấm điểm hai chỗ.

Tiếp theo, tường cửa. Môn bích của một phương ấy, cách Đàn khoảng hơn năm ngón tay.

Tiếp theo, lại quẹo từ tường cửa hướng về bên trái phải khoảng năm ngón tay làm.

Tiếp theo, hai bên trái phải của cửa Đàn ấy, rộng năm ngón tay làm.

Tiếp theo, bên ngoài cửa ấy, ghép ráp ngay thẳng.

Một phương đã như vậy thì ba phương cũng thế.

Tiếp theo, làm sợi dây bốn khuỷu tay bên ngoài Trung Viện.

Bên trong Ngoại Viện ấy với bên ngoài Trung Viện ấy: Hai khoảng giữa của sợi dây mở một lối đi một khuỷu tay cửa của Trung Viện ấy, tường vách bốn phương cùng với hướng hai bên trái phải, cùng làm rộng khoảng ba ngón tay.

Bên ngoài cửa ấy, Pháp ghép ráp thẳng sợi dây như lúc trước nói bốn phương bên trong Trung Viện ấy đều lìa sợi dây bên trong Ngoại Viện một khuỷu tay, trên đất lại ghép ráp sợi dây phấn.

Chính giữa Đàn ấy làm cái Viện hai khuỷu tay, đừng làm thành cửa. Môn thành.

Tiếp theo, ngày thứ sáu: A Xà Lê dùng chỉ năm màu, tùy theo số người thọ pháp nhiều ít mà kết làm sợi dây Chú, dùng Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Tâm Chú chú vào.

Liền nói Chú là:

Úm a di lý đô tri bà bà hồng, phất.

Nên dùng Chú này, một lần Chú thì kết một gút, như vậy kết đủ năm mươi bốn gút. Làm sợi dây Chú xong, tiếp theo đem mảnh lụa gói bọc năm loại lúa đậu, bảy báu chung một chỗ, dùng chỉ năm màu cột chặt đầu bọc ấy, cũng dựa theo số người.

Ngày ấy, giờ Dậu: A Xà Lê cùng với các nhóm đệ tử đáng được vào Đàn, hết thảy tắm gội xong, mặc áo sạch mới, sai nhóm đệ tử ngồi thành hàng ở bên ngoài Đạo Tràng như gần bên phía Tây. Tiếp theo, A Xà Lê cùng các đệ tử làm Đại kết giới, Hộ Thân, việc pháp.

Đṇ khi Mặt Trời lặn, sau đó A Xà Lê vào trong Đạo Tràng thỉnh Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang với Chư Thiên vào Đàn an trí: Tòa Phật ở chính giữa, nhóm Quán Thế Âm ngồi ở phương Bắc, nhóm Kim Cang Tạng ngồi ở phương Nam, rồi đem mọi loại hương hoa thượng diệu, năm mâm thức ăn uống, thắp mười sáu ngọn đèn mà làm cúng dường.

Việc Pháp xong rồi. Tiếp theo A Xà Lê ra khỏi Đạo Tràng, đón dẫn nhóm đệ tử đến nơi Đạo Tràng, gần đầu cửa Tây, đứng thành hàng, đốt chút hương đi cúng dường, lễ bái.

Làm việc Pháp xong. Tiếp theo, A Xà Lê mỗi mỗi lại cho làm Hộ Thân Ấn, tụng.

Chú ấn ở trên đầu của mỗi một đệ tử, như lúc trước.

Sau đó, khiến đến quỳ ngồi trên cái chiếu, đều hướng mặt về phương Đông. A Xà Lê cầm hạt cải trắng, Chú vào rồi đánh ném vào đầu, mặt, trái tim của mỗi một đệ tử ba lần. Sau đó, dùng Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Ấn Chú, lại làm Hộ Thân, việc Pháp như lúc trước.

A Xà Lê quỳ gối, hỏi đệ tử lớn nhất: Các ngươi muốn được thô nhận pháp này chăng?

Nhóm đệ tử ấy đáp rằng: Muốn được nhóm pháp như vậy.

Hỏi đáp đủ xong. Tiếp theo, A Xà Lê cầm vật khí chứa nước thơm để ở trên đầu của mỗi một đệ tử. Lại dùng tay phải đè trên ngực của mỗi một đệ tử, miệng tụng Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm Chú cùng hộ trì xong, tiếp theo đem sợi dây.

Chú cột buộc ở cánh tay trái của mỗi một đệ tử.

Tiếp theo, A Xà Lê dẫn các đệ tử lui ra khỏi vị trí rồi đi xuống từ thềm Đông đền bên dưới thềm Tây, quỳ xuống mà ngồi. A Xà Lê liền dùng nước hương của nhựa cây Sa La theo thứ tự cùng rưới vảy trước mặt mỗi mỗi đệ tử, lại nhiễu quanh ba vòng.

Tiếp theo, dùng đuốc lửa nhiễu theo bên phải ba vòng, cũng như pháp lúc trước.

Tiếp theo, cho cành liễu. Tiếp theo cho hoa tạp đều dựa theo pháp lúc trước, nhiễu theo bên phải trao cho các nhóm đệ tử.

Nhóm đệ tử ấy nhận cành liễu xong, lui lại, quỳ gối nhai nhấm đầu cành liễu. Sau đó, hướng về phía trước ném cành liễu ấy. A Xà Lê mỗi mỗi nhìn xem nơi cành liễu ấy rơi xuống.

Nếu đầu cành liễu ấy hướng về thân là Đạt Cát. Nếu hướng về Nam tức là chẳng tốt. Nếu đầu nhai nhấm ấy hướng về phương khác, liền biết là bình bình.

Như vậy, thứ tự thí nghiệm khắp xong. Sau đó theo thứ tự rót nước thơm vào lòng bàn tay với cho uống vào, mỗi người đều uống ba lần. Rưới rót vào lòng bàn tay của mỗi một đệ tử xong khắp, tiếp theo A Xà Lê cầm Bạt Chiết La. Chày Kim Cang ấn vào nước rồi tự uống.

Làm việc Pháp xong, dần các đệ tử đi lên Đạo Tràng, từ trên thềm Tây, ngồi thành hàng ở cạnh Đạo Tràng cùng làm một biến hành hương. Việc Pháp xong rồi.

Tiếp theo, A Xà Lê nói với các đệ tử: Các ngươi hãy đi nằm nghỉ. Nếu có tướng mộng thì sáng sớm nói đầy đủ cho ta, mỗi mỗi đều dùng tâm chẳng được vội vàng tiết lộ cho người khác Nói lời này xong. Tiếp theo, A Xà Lê dần nhóm đệ tử từ thềm Đông đi xuống đều tản ra đi về phòng.

Tiếp theo, A Xà Lê vào bên trong Đạo Tràng khải bạch Phật, Bồ Tát, Kim Cang rằng: Các đệ tử này muốn vào Đàn, về sau mỗi mỗi đều thủ chứng. 

Đệ tử. Họ tên… của con cùng làm pháp dụng, hết thảy hỏi khắp xong các nhóm đệ tử. Ngày mai muốn đi vào Đàn cúng dường.

Nguyện xin Phật, Bát Nhã Bồ Tát, Kim Cang với Chư Thiên: Đêm này đại bi cảnh giới đồ chúng đệ tử. Họ tên ngày mai thỉnh khắp tất cả Tam Bảo với các quyến thuộc, rộng làm cúng dường. Nguyện đại từ bi chứng minh đều đi đến nhận lấy các chúng dường, chứng minh việc pháp như vậy nói ba lần.

Sau đó, phát khiển Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang bên trong Đàn tùy theo duyên sớm tan. Tiếp theo, A Xà Lê hướng về bên Bắc của Đàn, để lò lửa xong, tụng Mã Đầu Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Tâm Chú chú vào hạt cải trắng, một lần Chú thì một lần thiêu đốt ở trong lò lửa, một trăm lẻ tám biến khiến các đệ tử diệt tội trừ chướng.

Tiếp theo, A Xà Lê cùng với hai, ba người đệ tử từng vào Đàn. Ở trong ban đêm dùng phấn năm màu bày trí bên trong Đàn, trang nghiêm đất ấy.

Pháp Dụng ấy. Trước tiên tự bên trong an bày, dùng phấn màu trắng, tiếp đến phấn màu vàng, tiếp đến phấn màu đỏ, tiếp đến phấn màu xanh, tiếp đến phấn màu đen. Bốn mặt an bố xong, liền đến Ngoại Viện từ góc Đông Bắc, hồi theo bên phải mà làm, an bố phấn năm màu cũng như pháp lúc trước.

Bốn mặt xong rồi, dùng Đế Thù La Thí. Tejorāśi là Tòa Chủ. Ngay chính giữa bày tòa hoa sen lớn, Tòa Chủ tức là Thích Ca Như Lai Đảnh Thượng Hóa Phật. Vị Hóa Phật trên đảnh đầu của Thích Ca Như Lai, hiệu là Phật Đảnh Phật. Buddhoṣṇīṣabuddha.

Như chẳng dùng Phật Đảnh làm Chủ thì tùy theo Ý nghĩ đến Chư Phật, Bồ Tát thay thế vị trí cũng được, trừ Tòa Chủ ấy ra thì Chư Phật với nhóm Bồ Tát đều ở tại Bản Vị mà nhận cúng dường.

Ví như chẳng là Chư Phật, Bát Nhã với Bồ Tát của nhóm Thập Nhất Diện… thay thế cho nhau, thì còn lại đều chẳng được để làm Chủ của Đô Hội Pháp Đàn.

Ngoài ra có nhóm chữa bệnh, các Thủy Đàn với Đàn trải qua một đêm sám hối… tùy theo chỗ ứng ấy, dùng nhóm Phật, Bồ Tát trong Đương Bộ mà làm Tòa.

Chủ, người làm cúng dường thì mọi loại đều tốt Chính giữa an bày vị trí của Tòa Chủ xong.

Tiếp theo, ở Nội Viện, ngay chính giữa mặt Đông an tòa hoa của Bát Nhã Ba La Mật Đa. Prajñā pāramitā. Tiếp theo, bên phải an tòa của Thích Ca Mâu Ni Phật Śākya muṇi buddha. Tiếp theo, bên trái an tòa của Nhất Thiết Phật Tâm Phật. Sarva buddha hṛdaya buddha.

Tiếp theo, ở mặt Bắc, ngay giữa cửa an tòa của Đại Thế Chí Bồ Tát. Mahāsthāma prāpta bodhisatva. Tiếp theo, bên phải an tòa của Quán Thế Âm Mẫu. Avalokiteśvara mātṛ. Tiếp theo, bên trái an tòa của Quán Thế Âm Bồ Tát. Avalokiteśvara bodhisatva.

Tiếp theo, ở mặt Nam, ngay giữa cửa an tòa của Kim Cang La Xà. Vajra rāja.

Tiếp theo, bên phải an tòa của Ma Ma Kê. Māmakī: Đây là Kim Cang Mẫu. Tiếp theo, bên trái an tòa của Ma Đế Na. Gọi là Kim Cang Sứ Giả.

Tiếp theo ở mặt Tây, phía Nam của cửa Viện an tòa của Phổ Hiền Bồ Tát. Samanta bhadra bodhisatva. Tiếp theo, phía Bắc của cửa Viện an tòa của Di Lặc Bồ Tát. Maitreya bodhisatva. Tiếp theo, góc Đông Bắc của Viện an tòa của A Xá Ni. Aśani. Tiếp theo, góc Đông Nam an tòa của Bạt Chiết La Tô Bà TấtĐịa Ca La. Góc Tây Nam an Bạt Chiết La Kiện Trà.

Vajra ghaṃṭa: Kim Cang Linh. Góc Tây Bắc an tòa của Hỏa Thần. Agni devatā.

Tiếp theo Ngoại Viện, đầu phía Bắc của mặt Đông, thứ nhất an tòa của Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát. Mañjuśrī bodhisatva. Tiếp theo, phía Nam an tòa của Thập Phương Nhất Thiết Phật. Daśa diśa sarva buddha. Tiếp theo, an tòa của Chiên Đàn Đức Phật. Canda guṇa buddha. Tiếp theo, an tòa của A Súc Phật. Akṣobhya buddha.

Giữa cửa của Đương Viện an tòa của A Di Đà Phật. Amitābha buddha. Tiếp theo, an tòa của Tướng Đức Phật. Ketu śrī buddha. Tiếp theo, an tòa của Hư Không Tạng Bồ Tát Ākāśa garbha bodhisatva. Tiếp theo, an tòa của Ô Sắt.

Ni sa. Uṣṇīṣa. Tiếp theo, an tòa của Thập Phương Nhất Thiết Phật Đảnh. Daśa diśa sarva buddhoṣṇīṣa.

Mặt Bắc của Đương Viện, từ phía Đông hướng về phía Tây, thứ nhất trước tiên an tòa của Đà La Ni Tạng. Dhāraṇī garbha. Tiếp theo, an tòa của Địa Tạng Bồ Tát. Kṣiti garbha bodhisatva. Tiếp theo, an tòa của Mã Đầu Quán Thế Âm. Hayagrīvālokiteśvara.

Tiếp theo, an tòa của Bất Không Quyến Sách. Amoghapāśa. Tiếp theo, an tòa của Nhất Tha Tam Bạt Để Già.

Giữa cửa của Đương Viện an tòa của Tùy Tâm Quán Thế Âm. Tiếp theo, an tòa của Ma Ha Thất Lợi Gia. Mahā śrīya. Tiếp theo, an tòa của Lục Tý Quán Thế Âm Ṣaḍ bhūjāvalokiteśvara. Tiếp theo, an tòa của Tỳ Câu Tri Quán Thế Âm Bồ Tát. Bhṛkuṭī avalokiteśvara bodhisatva.

Mặt Nam của Đương Viện, từ phía Đông, thứ nhất an tòa của Ô Khu Sa Ma.

Ucchuṣma: Đường nói là Bất Tịnh Kim Cang. Tiếp theo, an tòa của Bạt Chiết La Tra Ha Sa. Vajrāṭṭa hāsa. Tiếp theo, an tòa của Bạt Chiết La Mẫu Sắt Tri.

Vajra muṣṭi: Gọi là Kim Cang Nhi. Tiếp theo, an tòa của Bát Chiết La Ương.

Câu Thí. Vajrāṃkuśī: Tên là Kim Cang Tiểu Nữ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần