Phật Thuyết Kinh Như Lai Hưng Hiển - Phần Mười Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN MƯỜI NĂM
Này Phật Tử! Đó là Bồ Tát hội nhập vào như huyễn mà độ đời, độ đời sở hành trần lao, đô đời cõi nước phương tục, độ đời ta người, độ đời thống khổ, đời hữu vi, đời lìa có, đời hợp hội, đời không hợp hội, đời phân biệt, đời tạo tác, đó là tên đời mà Bồ Tát tế độ.
Nghĩa là dùng cái như huyễn mà vào khắp các đời, không nhận chúng sinh, không hoại chúng sinh, không nhận cõi nước, không hoại cõi nước, không nhận nơi pháp, không hoại nơi pháp, không nhớ quá khứ, không chỗ nghĩ tưởng với việc quá khứ, cũng không rời nghĩ tưởng, cũng không vị lai, không tạo hạnh, không theo cái chưa đến, không trú ở hiện tại, không hủy cái đang tồn tại.
Nghĩa là đối với Phật Đạo không hề rong ruổi, không tưởng nhớ đạo, cũng chẳng hưng hiển Phật, chẳng khuyến thỉnh Phật thủ lấy diệt độ. Không trú ở nguyện, cũng không xả thệ nguyện, vâng tu bình đẳng, cũng chẳng nghiêm tịnh, không chỗ ngăn ngại, khai hóa cõi nước khiến cho tất cả tiến vào chỗ không hủy hoại.
Trụ ở gốc pháp mà không động chuyển, bình đẳng vào chỗ ta, người mà không bỏ tưởng, ấm, chủng tử, các nhập của ta người. Dạy bảo các hạnh, tẩy trừ chấp trước, độ thoát chúng sinh. Đối với các hạnh này không chỗ trú trước, hiểu rõ các pháp mà bình đẳng, vĩnh viễn không sở đắc, phân biệt các pháp chỉ là giả hợp.
Minh tuệ Thánh đạt không thể đoạn mất, độ thoát chúng sinh, hằng thuạn tùy thời, cũng không dựa bám vào nhân duyên của chúng sinh, trú nơi đại bi thông đạt các hạnh đời trước không thể tính đếm, khiến cho chúng sinh tin chắc các việc báo ứng. Đó là pháp nhẫn huyễn dụ thứ tư.
Này Phật Tử! Sao gọi là pháp nhẫn như sóng nắng của Bồ Tát Đại Sĩ?
Bồ Tát hiểu rõ tất cả sở hữu của thế gian đều là lờ mờ không thật. Giống như ngựa hoang mà chúng ta thấy chúng từ xa, cũng như dòng sông chảy mà có sóng dậy, kẻ nhìn rõ thì thấy đó là hơi nước bốc lên chứ không phải nước.
Bồ Tát cũng vậy, phân biệt các việc có không của các pháp không trong, không ngoài, không có, không không, cũng không đoạn diệt, chẳng cho là thường còn, không xem nhẹ lời giáo huấn, quán thấy như có mà chẳng chạy theo, tâm không hướng ngoại cũng chẳng hướng nội, là một hình tướng mà chứa vô số hình tướng, biết tất cả các pháp vốn không hình tướng, đầy đủ sự vi diệu, tất cả đều vô tự tánh. Đó là pháp nhẫn ngựa hoang thứ năm.
Này Phật Tử! Sao gọi là pháp nhẫn như mộng của Bồ Tát?
Bồ Tát quán thế gian giống như mộng tưởng, như giấc mộng của người mộng, không ở trong đời, không từ đời hưng khởi, không từ đời sinh ra, mộng tức là mộng không có Dục Giới, không có Sắc Giới, không có Vô Sắc Giới, cho nên gọi là mộng.
Nghĩa là mộng không có chỗ sinh ra, không có sở hữu, mộng không có trần lao thì không có oán kết. Lại nữa, đã cho là người mộng thì không có chỗ sinh ra, cũng không thanh tịnh, mộng không thấy mộng, Bồ Tát quán tất cả ở đời đều hiểu rõ như mộng, không sáng thông cũng không mù tối.
Mộng thì tự nhiên, mộng không chấp trước, mộng là mơ màng, mộng cũng vốn tịnh, có chỗ kiến lập nên có mộng này. Mộng không chỗ hoại, vì chỗ niệm tưởng mà có mộng ấy. Nếu có thể hiểu rõ các pháp đều là như mộng thì có thể dẫn dắt tất cả thế gian. Đó là pháp nhẫn như mộng thứ sáu của Bồ Tát.
Này Phật Tử! Sao gọi là pháp nhẫn như tiếng vang của Bồ Tát?
Bồ Tát học pháp, vào các âm thanh, nếu có sở học thì đó là việc độ người chưa độ, học pháp hóa độ, biết rõ tất cả. Giống như tiếng vang không phải không có tiếng vang nhưng vốn vắng lạng cũng không thấy có chỗ đủ.
Bồ Tát Đại Sĩ ở nơi các sắc tượng như vậy, quán sát các âm hưởng trong ngoài của Như Lai, chớ có thấy các việc trong ngoài, cũng không biết ngoài, không lấy cái trong mà hiểu việc ngoài, chẳng thấy chỗ gởi gắm, biết rõ ngôn từ, tùy nghi tiến lùi. Đó là sự biết rõ chừng ấy chương cú, nhân duyên như tiếng vang nhưng có sự hưng khởi hướng đạo. Đối với các pháp thí không có chỗ nào mà không thông đạt, cũng không ngăn ngại.
Người có sở học là phân biệt, hiểu rõ tất cả các âm thanh đều vô sở hữu. Giống như Ngọc nữ thù diệu ở Cõi Trời là thuộc của trời Đế Thích. Chỉ dùng một miệng mà tấu ra trăm ngàn âm thanh kỹ nhạc, những kỹ nhạc ấy không hề tưởng nghĩ, miệng cũng không nghĩ là ta nay đang phát ra trăm ngàn diệu hưởng.
Bồ Tát Đại Sĩ độ các cảnh giới cũng không hề tưởng nghĩ, cũng không ngôn thuyết, biết rõ quyền biến, phương tiện vô hạn, thành tựu vô lượng âm, độ các pháp thế gian mà chẳng hề thoái lui, thường chuyển các cảnh, vào với chúng sinh và các chúng hội, phân biệt giảng nói cho họ. Mở đường dẫn lo cùng khắp tức là kiến lập cho họ, diễn thuyết thông suốt, hiện ra âm thanh không hề ngăn ngại, biến khắp Cõi Phật làm cho họ tin chắc.
Ban tuyên Kinh đạo, dạy dỗ chúng sinh, ánh sáng phát ra chiếu khắp kẻ mê khiến họ giác ngộ. Tất cả âm thanh, dẫu có nói gì cũng không chỗ sinh, chừng ấy âm thanh không hề tưởng nghĩ mà lại mở đường dẫn lối, rõ vô sở sinh, tuyên dương giác trường, đạt đến Thánh Đạo.
Bồ Tát Đại Sĩ đã trú nơi này thì đều bình đẳng không có sở đắc, khiến người nghe rộng khắp, vào nơi tất cả chỗ hưng khởi của Chư Phật, diện kiến Chư Phật, chuyển bánh xe pháp, hóa độ và tùy thuận vô lượng mà không hề khởi nghĩ. Đó là pháp nhẫn như tiếng vang của Bồ Tát.
Này Phật Tử! Sao gọi là pháp nhẫn như ảnh của Bồ Tát?
Bồ Tát không chìm ở nơi đời, không sinh ra nơi đời, không đi vào đời, không ra khỏi đời, không làm ở đời, không tin pháp giới, không hoại tập tục. Lại nữa, đối với Thế Giới cũng không phải không hoại, không đến ở đời, không tham vui ở đời, không ngự trị ở đời, không lớn lên ở đời.
Lại nữa Bồ Tát ấy không ở tại đời, cũng không độ đời, không phụng hành hạnh Bồ Tát, không chỗ thuần tín. Đối với đại thệ nguyện không thật cũng không hư, không có cũng chẳng không thì trở về tất cả pháp của Chư Phật, không một chỗ nào mà không cùng khắp ở thế gian.
Đối với pháp thế tục cũng không chỗ trụ, không theo tục giáo, như ảnh, như mặt trời, mặt trăng chiếu khắp loài người, cỏ cây, núi đồi, nhà cửa, cung điện các thần, các dòng sông… tất cả vạn hữu không thể tính đếm vô lượng nhân duyên, vô số phương diện, vì ánh sáng mặt trời đều thấy vạn vật và chỗ hướng đến của nó, cũng như nước lắng trong vậy.
Lại như người chèo thuyền gặp ngọc Dạ quang nên nhờ ánh sáng ấy mà được như ý, những chỗ cấu uế và không có ánh sáng thì đều nhờ ánh sáng tự hiện ra ấy mà được chiếu tỏa, người chèo thuyền ấy không hề phải tạo lập. Lại nữa, ánh sáng ấy không có sở hữu, không có âm hưởng, cũng không chỗ sinh ra. Vì ánh sáng ấy mà có chỗ sáng tối khác nhau, nhưng ánh sáng này không hề có đi lại.
Tuy là trong sáng nhưng không cùng ở với sự trong sáng, ở nơi chỗ ánh sáng thì cũng gọi là ánh sáng. Nó chiếu soi vô số dòng nước mà không hề có chỗ chiếu, không chỗ biến khắp, ảnh chiếu của nó không nhập vào sông ngòi, khe suối, ao sâu, biển lớn.
Ảnh ấy không xứ sở, cũng không bám chắc, chỗ hiện của ảnh ấy không trong sáng cũng không tỳ vết. Ảnh ấy không hiện thì trong khoảng không gian ấy không nương được vào gốc, nếu hiện ra rộng thì chảng gần, chẳng xa. Cũng vậy, Bồ Tát khai hóa cùng với chí hướng nẻo hành của họ mà được tự tại.
Chỗ quán sát đạo tuệ của chúng sinh cùng chỗ khuyến hóa chí hướng nẻo hành cho tha nhân đều không sai biệt. Phân biệt chỗ đi vào Đạo Tràng của mình và quán sát cảnh giới thâm sâu của mình cùng của người không có hai bậc. Như việc trồng cây, trước hết nảy mầm rồi mới phát triển tươi tốt, dần dần lới lên mà sinh ra lá, cành, đốt, hoa, quả.
Như vậy, đối với pháp giới của mình cùng với pháp giới của tha nhân, Bồ Tát phân biệt rõ các tướng, biết pháp không có hai thì được siêu nhập bản tế vô ngại. Thân Bồ Tát ấy được siêu vượt cảnh giới của Chư Phật không thể nghĩ bàn, thấy các Cõi Phật không hề trú trước. Ở nơi các Thế Giới không hề di chuyển, đến các Phật giới mà cũng chẳng có chỗ đến, chỗ đến của Pháp Thân như ảnh Mặt Trời nhìn thấy trước mắt.
Thân ấy vào khắp, hiện khắp Thế Giới, có chỗ hiện sinh mà hành không ngăn ngại cũng không phân thân, cũng chẳng chốn hành, không nghĩ đến thế tục, dứt bỏ từ ngữ hư dối của phương tục, cũng không tán thân để đạt đến chỗ không đầu cuối, không chỗ nào mà không trùm khắp.
Chốn hành hóa nơi bản tế của Như Lai chủng cũng chẳng làm tịnh thân, khẩu, ý hành, bèn hội nhập vào sự giảng nói vô lượng, thanh tịnh tất cả thần, không gì không đạt được. Đó là pháp nhẫn như ảnh thứ tám của Bồ Tát.
Này Phật Tử! Sao gọi là pháp nhẫn như hóa của Bồ Tát Đại Sĩ?
Bồ Tát vào khắp thế tục, nếu có chỗ đến thì Bồ Tát quán rõ tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa. Nhưng nghĩ đến việc như hóa mà chẳng muốn biết vì cho là vạn vật huyễn hóa.
Nghĩa là tất cả Thế Giới các cõi vì có hành vi, tư tưởng hóa hiện ra nên tất cả đều là sự khổ vui, điên đảo. Tất cả sự hóa hiện ấy của thế gian đều do tư tưởng, vô minh mà liền thành các niệm tưởng phiền não cấu nhiễm. Vì do hóa hiện biến ảo nên kiến lập âm thanh tuyên thuyết, rộng nói pháp đạo.
Dùng giáo pháp vô tưởng mà khai hóa họ làm cho họ kiên cố không lùi, bình đẳng dẫn dắt, khai ngộ người chưa khai ngộ, lập chí thệ nguyện, hành như huyễn hóa. Quán sát hành dụng đại Bi của Như Lai và sự huyễn hóa của muôn loài.
Hiểu rõ điều đó tức là tu phương tiện quyền xảo, dùng tuệ vô úy, bốn phân biệt biện Thánh đạt tự tại. Bồ Tát như vậy hóa độ khắp đời, công đức vượt đời, biện tài tự tại, rộng lớn không bờ, vào trong trăm ngàn chúng hội mà luôn tự tại. Có thể hiểu rõ sự tương ưng giữa Cõi Trời và cõi người, thấy rõ đường Thánh, chỉ bày đại đạo đúng như chốn hành không hề trái mất.
Ví như hóa nhân thì không có sở niệm, không có tạo tác, chẳng hưng khởi tâm, không có chỗ trụ ở nơi pháp, không khởi theo nghiệp, chẳng mong báo ứng, không chỗ đi đến, không ra khỏi đời, không ở nơi đời mà thành Chánh Giác, cũng chẳng nghĩ đến pháp, không huân tập các pháp, không trụ lâu dài cũng chẳng trụ phút chốc.
Cũng không chỗ ở, không hành tập tục, không lớn lên ở thế gian, không có phương diện ngôn từ, không gần các giới hạn, cũng không phải không giới hạn, không tăng không giảm, không có thuần tín, cũng không phải không thuần tín, không có Hiền Thánh cũng không phàm phu, không có phiền não cũng không oán hận, không sinh không diệt.
hông có trí tuệ cũng không phải không có trí tuệ, không sở hữu cũng không vi diệu, không nương tựa thế gian cũng không dẫn dắt hành xử thế gian. Ở trong các pháp giới không có chỗ nhận cũng không phải không nhận, không có ngũ ấm cũng không phải không có ngũ ấm, không có sinh tử cũng không diệt độ, chẳng có chẳng không.
Bồ Tát như vậy mà du hành ở đời, tu hạnh Bồ Tát, sáng tỏ biện tài, không hề kiêu mạn, nhìn thấy thế gian, không có tự cao, vâng tín tu hành không vì thân mình, chẳng vì thế tục, không có phóng dật, chẳng có ta người, rời chấp cống cao, cũng không ỷ lại, không dựa vào đời, xả bỏ kiêu mạn, không chỗ nhớ nghĩ, không ở nơi đời cũng không ngăn cách đời, không ở nơi pháp mà đầy đủ sự tự tại, không có sự ỷ lại ở nơi cõi người, không chỗ khai đạo cũng không ở nơi cõi chúng sinh, không có sở nguyện cũng không có nhớ nghĩ, cũng không chỗ tịnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Người Phụ Nữ Gặp điều Bất Hạnh
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Mười Năm - Phẩm Tĩnh Lự Ba La Mật đa - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Vô Cấu Xưng - Phẩm Tựa
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Mười Một - Phẩm Tịnh Hạnh
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tám Thánh đạo Phần
Phật Thuyết Kinh ánh Sáng Hoàng Kim - Phẩm Sáu - Phẩm Minh Chú Tịnh địa