Phật Thuyết Kinh Phật A Tỳ đàm Xuất Gia Tướng - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Chân Đế, Đời Trần

PHẬT THUYẾT KINH

PHẬT A TỲ ĐÀM XUẤT GIA TƯỚNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

 Pháp Sư Chân Đế, Đời Trần  

PHẦN MỘT  

Đem công đức hiện có của tất cả chúng sanh trong một nghìn A tăng kỳ Thế Giới chỉ bằng công đức nơi một lỗ chân lông của Phật.

Như vậy là thành tựu công đức nơi một lỗ chân lông của Phật. Công đức của các lỗ chân lông trên khắp thân Phật chỉ bằng một vẻ đẹp của Phật.

Công đức thành tựu nơi tám mươi vẻ đẹp như vậy tăng lên một trăm lần mới bằng một tướng tốt trên thân Như Lai.

Công đức thành tựu nơi ba mươi hai tướng tốt như vậy tăng lên một nghìn lần mới bằng một tướng ánh sáng giữa hai chân mày của Như Lai.

Lấy công đức của một nghìn tướng ánh sáng giữa hai chân mày, tăng lên một trăm lần mới thành một tướng nhục kế trên đỉnh đầu của Như Lai, là tướng đỉnh đầu, tất cả chư thiên không thể nhìn thấy Vô kiến đảnh. Đạt Công đức không thể nghĩ bàn như vậy mới thành tựu được thân Phật. Vì vậy, đức Như Lai ở trong hàng Trời, người là bậc tôn quý hơn hết.

Đức Phật dạy: Vào thuở xa xưa Chư Phật đã giảng nói: Này các Tỳ Kheo! Nếu thấy tướng sinh của mười hai nhân duyên tức là thấy pháp.

Nếu thấy được pháp tức là thấy Phật.

Chư Phật nói như vậy có nghĩa là gì?

Nghĩa là nhờ nhân duyên này, thấy được tướng sinh của mười hai nhân duyên có sinh và không sinh, tức là thấy pháp. Nếu thấy được pháp có sinh và không sinh, tức là thấy Phật, do tùy thuận theo tuệ.

Lại nữa, tên của mười hai nhân duyên là gì?

Chư Phật quá khứ đã giảng nói có hai nghĩa.

Nói mười hai nhân duyên sanh: Một là từ nơi nhân, hai từ nơi duyên.

Lại nên quán sát theo hai nghĩa này: Một là bên ngoài, hai là bên trong. Nhân duyên bên ngoài theo nghĩa của nhân.

Vì sao tất cả Chư Phật ở quá khứ, vị lai với chủng trí, đều nói như vậy?

Do từ hạt giống sanh ra mầm, từ mầm sanh ra lá, từ lá sinh ra đốt, từ đốt sinh ra cộng, từ cộng sinh ra gốc, gốc sinh ra cành, từ cành sinh ra đài, từ đài sinh ra hoa, từ hoa sinh ra hạt, nếu không có hạt thì không sinh ra mầm.

Như vậy, không có hoa thì không sinh ra hạt, có hạt nên được sinh ra mầm. Như vậy, có hoa nên được sinh ra hạt, nhưng hạt cũng không nói ta có thể sinh ra mầm, mầm cũng không thể nói ta có thể tự sinh. Như vậy, tất cả các pháp như lý mà ổn định. Vì ý nghĩa này, nên nhân duyên bên ngoài theo nghĩa của nhân, nên quán sát như thế. Đây là quán theo nghĩa của nhân.

Quán theo nghĩa của duyên là gì?

Như tánh đất, tánh nước, tánh lửa, tánh gió, tánh khoảng không. Tánh đất là có thể nhận hạt giống, tánh nước có thể tưới thấm hạt giống, tánh lửa có thể làm cho hạt giống thuần thục, tánh gió có thể làm cho hạt giống lớn lên, tánh hư không có thể làm cho hạt giống không bị trở ngại. Nếu không có duyên này thì hạt giống không thể nẩy mầm.

Như tánh đất có thể thu nhận hạt giống, tánh nước có thể làm thấm nhuần hạt giống, tánh lửa có thể làm thuần thục hạt giống, tánh gió có thể làm cho hạt giống lớn lên, tánh hư không có thể làm cho hạt giống không bị trở ngại. Nhờ thời tiết nên hạt giống được lớn lên, hạt giống lớn lên nên nẩy mầm.

Tánh đất cũng không nói ta có thể thu nhận hạt giống, tánh nước cũng không nói ta có thể tưới thấm hạt giống, tánh lửa cũng không nói ta làm cho hạt giống thuần thục, tánh hư không cũng không nói ta có thể làm cho hạt giống không bị trở ngại, hạt giống cũng không nghĩ ta nhờ các duyên này mà được lớn lên. Nhưng nếu không có các duyên ấy, thì hạt giống không thể nẩy mầm.

Mầm ấy cũng chẳng phải tự làm, cũng không phải cùng làm, cũng không phải Trời Tự Tại làm, cũng chẳng phải không có nhân mà sinh ra, đều do đất, nước, gió, lửa, hư không, thời tiết nên hạt giống mới nẩy mầm.

Các nhân duyên bên ngoài này, nên quán sát năm điều: Không phải thường, không phải đoạn, không phải truyền nhau, nhờ các duyên nên quả hạt được tăng lên và do tương tự sanh.

Không phải thường nghĩa là hạt giống này diệt nên nói không phải thường. Lúc hạt giống này diệt cũng tức là lúc mầm sinh, không trở ngại, giống như cái cân một bên xuống một bên lên, vì vậy nói là chẳng phải đoạn.

Giống và mầm cũng không giống nhau, nên nói không phải truyền nhau, như hạt giống gieo trồng ít nhưng khi thu hoạch thì rất nhiều, do đấy nói nhờ các duyên nên quả hạt được tăng thêm. Như đã gieo giống thì nẩy mầm…, sanh ra quả tương tự, đây là do tương tự sinh ra. Điều này không phải vậy, từ hoa nên sinh ra hạt, nên như lý mà ổn định.

Thế nên nhân duyên bên ngoài, phải quan sát hai điều: Một từ nhân, hai là từ duyên. Ý nghĩa của nhân duyên bên trong, cũng phải quan sát hai điều. Một là do nhân, hai là do duyên.

Ý nghĩa của duyên bên trong từ nhân là gì?

Nghĩa là do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão, tử, ưu, bi, khổ não, theo thứ tự mà tăng trưởng. Như vậy, các khổ ấm tụ tập tăng trưởng.

Như vậy, do có vô minh nên hành tăng trưởng, như vậy cho đến có sanh, nên có lão tử tăng trưởng. Nếu không có vô minh thì không sinh ra hành,… nếu không có sanh thì không có lão tử. Như vậy, có vô minh nên có hành tăng trưởng… do có sinh nên có lão tử tăng trưởng.

Vô minh cũng không nghĩ ta có thể tạo ra hành, hành cũng không nghĩ ta là do vô minh tạo ra, cho đến sinh cũng không nói ta có thể tạo lão tử, lão tử cũng không nói ta là do sinh tạo ra. thế nên, có vô minh nên có hành tăng trưởng, cho đến có sinh nên có lão tử tăng trưởng.

Vô minh là gì?

Vô minh là nương vào sáu chủng tánh mà gọi là nam, nữ.

Thế nào là sáu chủng tánh?

Đó là tánh đất, tánh nước, tánh lửa, tánh gió, tánh hư không, tánh thức.

Tánh đất là: Tướng bền chắc có thể tạo thành thân, làm cho thân không đổ nát. Tánh nước cũng có thể duy trì, có thể thấm nhuần, có thể mềm mại, có thể ẩm ướt. Tánh lửa cũng có thể duy trì, làm cho các thức ăn được nấu chín. Tánh gió cũng có thể giữ hơi thở vào hơi khí, hơi thở ra v.v… Bên trong những vật chất đã thành do bốn đại này, có khoảng không, tức là không đại.

Cho đến thành danh sắc, ví như nguyên nhân của bó lau sậy, đó là tánh thức. Tánh đất không có ngã, không chúng sanh, không mạng sống, không nam, không nữ, không ta, không người, cho đến tánh thức cũng thế.

Duyên sáu tánh đầy đủ như vậy, có tưởng về chúng sanh, tưởng về thường, tưởng về hằng, tưởng hữu, tưởng về ngã, tưởng về dâm dục, tưởng về ngã sở, vô số những chúng sanh không hiểu biết, nên gọi là vô minh.

Vì có vô minh nên đối với cảnh, sanh ra tham đắm, sanh ra sân hận, sanh ra ngu si. Tham lam, sân hận, ngu si này đều nương vào cảnh mà sanh khởi nên gọi là hành. Tùy theo sự việc phân biệt, nên gọi là thức.

Từ thức này lại sanh ra bốn ấm, nên gọi là danh sắc, nương vào danh sắc nên có các căn, vì thế gọi là sáu nhập, vì tích tụ nên có xúc, vì tiếp xúc nên có thọ, vì có thọ nên sanh ra ái, vì ái tăng trưởng nên có thủ, nương vào thủ nên có hậu hữu.

Nghiệp hữu sanh nên có hữu vì nghiệp làm nhân nên có ấm, ấm khởi nên gọi là sanh, ấm suy hao nên gọi là già, ấm hư hoại nên gọi là chết, phiền não bên trong nên gọi là ưu, do tư tưởng mà có bi.

Thân, thức, ấm hòa hợp nên gọi là khổ. Ý, thức, ấm hòa hợp cho nên không ưa thích. Những điều đó gọi là tùy phiền não phần. Vì ý nghĩa tối tăm nên gọi là vô minh. Vì nghĩa tạo tác nên gọi là hành. Vì nghĩa nhận biết nên gọi là thức. Vì nghĩa đứng bền nên gọi là danh sắc. Vì nghĩa như cánh cửa thu nhận các trần nên gọi là lục nhập. Vì nghĩa xúc chạm nên gọi là xúc.

Vì nghĩa lãnh nhận nên gọi là thọ. Vì ý nghĩa ái thủ nên gọi là thủ. Vì ý nghĩa tái sanh ở đời sau nên gọi là hữu. Vì nghĩa sanh khởi nên gọi là sanh. Vì nghĩa suy hao nên gọi là già. Vì nghĩa hư hoại nên gọi là chết. Vì nghĩa phiền não nên gọi là ưu.

Vì nghĩa tư tưởng nên gọi là bi. Vì nghĩa bức ngặt thân thể nên gọi là khổ. Vì nghĩa làm tâm bị phiền não bức bách nên gọi là không vừa ý. Vì nghĩa của tùy phiền não phần nên gọi là khổ não. Như vậy, không theo thực tướng tức là theo tà hạnh, không hiểu biết tức là vô minh.

Như vậy do vô minh mà sanh ra ba loại hành: Thiện, ác và vô ký. Cho nên, nói là vô minh duyên hành. Có các hành như vậy cho nên có thức thiện, thức ác và thức vô ký. Do đó, nên hành duyên thức.

Vì có thức thiện nên sanh ra danh sắc thiện. Ác và vô ký cũng sanh ra như vậy. Do duyên thức mà gọi là danh sắc, sáu căn là nơi làm những việc nên làm như hiểu biết, trí tuệ. Do duyên danh sắc nên gọi là lục nhập.

Do lục nhập nên sanh ra lục xúc, do duyên lục nhập nên gọi là xúc. xúc này sanh nên thọ sanh, vì thế gọi là do duyên xúc mà sanh thọ. Lãnh thọ các duyên, đắm nhiễm, nên gọi là thọ. Do duyên thọ nên có ái.

Vui thích, tham đắm sắc đẹp, đắm nhiễm danh sắc không thể xa lìa, lại càng lún sâu, tham cầu, đó gọi là ái. Do duyên ái nên có thủ, càng mong cầu nhiều thì đời sau có nghiệp nhân thân, khẩu và ý, nên gọi là thủ duyên hữu, nương vào nghiệp nên sanh ra ấm.

Đây là do duyên hữu nên có sanh. Ấm này sanh khởi cho nên có suy hao hư hoại, đó gọi là sanh duyên lão tử. Như vậy, mười hai nhân duyên sanh, lại làm nhân cho nhau, cùng nhau sanh trưởng, từ vô thỉ luân chuyển mãi không dứt.

Lại nữa, nghiệp và thức, sanh ra mười hai nhân duyên, nên sanh ra bốn chi, theo nghĩa của nhân này.

Những gì là bốn?

Đó là vô minh, ái, nghiệp và thức. Hạt giống thức là nhân hữu vi, danh sắc do nghiệp và đám ruộng làm nhân. Vô minh, ái là nhân phiền não. Không có nghiệp và phiền não này thì hạt giống thức không sanh trưởng.

Điều đó nói rõ: Nghiệp nhân này và hạt giống thức là đám ruộng. Vì vô minh làm hư hoại hạt giống thức, ái làm thấm nhuần hạt giống thức.

Nhưng vô minh cũng không nghĩ: Ta có thể làm hư hoại hạt giống thức.

Ái cũng không nghĩ: Ta có thể làm thấm nhuần hạt giống thức.

Nghiệp cũng không nghĩ: Ta làm đám ruộng của thức, hạt giống thức cũng không nghĩ: Ta nhờ những loại này mà sanh ra.

Lại nữa, hạt giống thức an trú vào trong ruộng nghiệp, vì ái đã thấm nhuần, do vô minh che lấp nên hạt giống lớn lên, nảy mầm danh sắc.

Đối với tất cả các ấm không sanh, thì mầm danh sắc này cũng không tự tạo ra được, cũng chẳng phải người khác tạo, cũng không phải mình và người đều tạo, cũng không phải Trời Tự Tại tạo và cũng không phải không có nhân mà sanh ra. Do nghiệp phiền não như trên nên hạt giống thức được lớn lên và nảy mầm danh sắc.

Cũng không từ đời này qua thẳng đời sau mà phải có sự tùy thuận nghiệp, quả nhân duyên đầy đủ. Ví như soi gương sáng thấy rõ mặt mày. Mặt cũng không rời khỏi thân, chạy vào gương chỉ có hình tượng tương tự, nhờ nhân duyên đầy đủ nên mới như vậy, vì thế thân này diệt ở chỗ này thì sanh ở chỗ kia là do nhân duyên của nghiệp đầy đủ.

Ví như vầng trăng cách xa ba vạn hai ngàn do tuần mà vẫn hiện rõ ở đây. Nhìn vào bát nước sạch để thấy ánh trăng thì ánh trăng không rơi từ hư không xuống chỗ này, cũng không đi thẳng đến đây mà vẫn có hình tượng ánh trăng, vì có nhân duyên đầy đủ.

Ví như đem lửa để vào đồ vật, lửa cháy không tắt, ngọn lửa cũng không rời khỏi ngọn lửa mà đi, tùy theo Nhân nên lửa cháy. Như vậy, nghiệp phiền não sanh ra hạt giống từ đó tương tục sanh, nhập. Mầm danh sắc đối với pháp là không có chủ, nhờ nhân duyên đầy đủ nên nó như vậy, tất cả các chi đều như lý mà ổn định như thế.

Nhân duyên bên trong là theo nghĩa của nhân như thế, quán sát theo nghĩa của duyên như thế, theo nghĩa của nhân cũng như thế, nghĩa của duyên cũng như thế, như trong Kinh nói: Duyên khởi như vậy, duyên tập như vậy và duyên như vậy.

Như trong A Tỳ Đàm nói: Tướng vi diệu thù thắng, như nam nữ gặp nhau, có dâm dục, thời gian hòa hợp liên tục, thì hạt giống thức ở trong bụng của người nữ sanh ra mầm danh sắc.

Như mắt duyên với sắc, nhờ ánh sáng, duyên sanh ý, ý sanh ra nhãn thức. Như vậy, sắc do nhãn thức duyên với cảnh, ánh sáng thì mở đường, hư không thì không làm trở ngại. Nhờ vậy, sanh ra ý, nếu không có các duyên như thế thì thức không sanh.

Nếu mắt nhìn nhận không lầm lẫn thì các trần bên ngoài như sắc v.v… là đối tượng để duyên vào, ánh sáng thì mở đường, hư không không làm trở ngại, duyên sanh ý nương vào sự hoạt động của ý. Như vậy, mắt, danh sắc, ánh sáng, hư không, duyên sanh ý hòa hợp nên sanh ra nhãn thức.

Nhưng mắt cũng không nghĩ: Ta có thể làm chỗ nương cho nhãn thức.

Sắc cũng không nghĩ: Ta làm duyên cho nhãn thức.

Ánh sáng cũng không nghĩ: Ta làm ánh sáng thông suốt cho nhãn thức.

Hư không cũng không nghĩ: Ta có thể làm chỗ không trở ngại cho nhãn thức.

Duyên sanh ý cũng không nghĩ: Ta có thể duyên ý cho nhãn thức.

Nhãn thức cũng không nói: Ta nhờ các duyên ấy mà sanh ra. Nếu có các duyên này thì thành ra nhãn thức. Như vậy, tỉ, thiệt, thân và ý thức cũng đều theo đúng lý như vậy.

An trụ trong ánh sáng, nương vào ý và pháp, duyên sanh ý, đều nên giảng nói như vậy. Nhân duyên bên trong theo nghĩa của duyên, như vậy nên quán sát ý nghĩa của nhân duyên bên trong như thế.

Quán sát có năm việc: Không phải thường, không phải đoạn. Không lan truyền, nhờ các duyên nên kết quả tăng trưởng, theo tương tự mà sanh ra. Điều này không phải như vậy.

Vì sao?

Vì khi chết thì các ấm diệt, nên không phải thường. Lúc chết thì các ấm lập tức diệt, liền sanh ra trung ấm khác, không có gián đoạn, như cái cân một bên thấp một bên cao lên, nên gọi là chẳng phải đoạn.

Vì không phải giống nhau, nên từ tâm ban đầu mới sanh ra tâm thù thắng, nên gọi là không lan truyền, chỉ tạo nghiệp nhỏ mà chịu quả báo lớn, nên nói: Nhờ duyên mà kết quả của nó tăng trưởng. Đã tạo nghiệp gì thì chịu quả báo tương tự như vậy, nên gọi là theo tương tự mà sanh.

Điều này đúng. Nếu nhân duyên này biết mười hai nhân duyên là ấm sanh, có sanh và không sanh, thì lúc này dùng một thức vốn đã trải qua, tu tập bốn đế thì có thể chứng đắc. Diệt thì nhờ hiện tiền chứng đắc. Đạo thì nhờ quán sát mà chứng đắc. Như vậy các đệ tử chân chánh thấy chánh đế, tức là thấy pháp, nếu thấy pháp tức là thấy Phật.

Thuận theo tuệ để tu hành nghĩa là gì?

Đó là nhờ duyên thấy được ấm sanh, có sanh, không sanh tức là thấy hai đế, là khổ đế và tập đế. Như vậy nhân duyên nếu có thể thấy cả hai, thì thấy đế thứ nhất tức là thấy hai đế, diệt đế và đạo đế. Như vậy các đệ tử chân chánh thấy bốn đế tức là thấy Chư Phật, tùy theo trí tuệ nên sanh ra tâm niệm.

Ví dụ ấy như thế nào?

Như có người thấy một họa sĩ tài ba vẽ chân dung người rất đẹp, liền sanh khởi thức: Họa sĩ này vẽ giỏi thật.

Do đó, các đệ tử chân chánh thấy bốn chánh đế liền nghĩ: Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri giảng nói pháp này để đoạn trừ các khổ, liền khởi lòng tin tối thượng đối với Phật, tự nhiên giảng nói khéo léo về pháp Thanh Văn ấy, vi diệu sâu xa, có thể khéo léo an trụ, đối với pháp, có niềm tin kiên cố.

Khi ấy, tự nhiên giảng nói khéo léo về kinh A Tỳ Đàm để đoạn trừ tất cả các khổ. Nếu có thể tức là đi theo điều thiện, đối với Tăng, khởi lòng tin tối thượng, thấy thật đế nên được Giới phẩm thanh tịnh, được xa lìa thân kiến và giới cấm thủ v.v… các nghi ngờ đều đã xa lìa.

Như vậy các đệ tử chân chánh thấy được bốn đế đầy đủ bốn lòng tin tối thượng tức là xa lìa ba thứ ràng buộc, đắc quả Tu Đà Hoàn, chứng pháp quyết định hướng đến con đường Chánh Giác, an trụ vào quả thứ nhất.

Làm mỏng bớt dâm dục, sân hận, ngu si, thì đắc quả Tư Đà Hàm, an trụ vào quả thứ hai. Xa lìa năm ấm trói buộc và chín kiết sử, siêng năng tu tập, dứt trừ các lậu hoặc đắc quả A Na Hàm, an trụ vào quả thứ ba.

Diệt trừ hoàn toàn sắc dục, ngã mạn, cao ngạo, vô minh v.v… được quả Sa Môn thứ tư tối thắng, thành tựu A La Hán, an trụ vào Niết Bàn hữu dư y dần dần xa lìa các hữu, đến lúc thân hoại mạng chung liền nhập vào Niết Bàn Vô dư.

Quán sát tướng thân do ấm sanh ra như vậy, thấu rõ Bốn Thánh Đế, đạt được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, đều được hiện tiền. Quán sát nhiều loại tướng thân sanh ra như vậy, biết được Bốn Thánh Đế, xa lìa pháp quán tướng thân sanh ra này và sự biết rõ Bốn Thánh Đế thì không đạt được Đạo giải thoát.

Muốn cầu Đạo giải thoát, cầu Bốn Thánh Đế, cầu lòng tin tối thượng, cầu thành tựu bốn quả Sa Môn cầu nhập vào Niết Bàn vô dư y thì đối với Kinh A Tỳ Đàm phải siêng năng quán sát tướng của Ấm giáo pháp của Đấng Chánh Giác Vô Thượng như vậy.

Hôm nay luận bàn về tướng Luật. Các chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, A Tu La, Ca Lầu La, Càn Thát Bà cung kính tôn trọng cúng dường Thế Tôn, đạt được lợi lớn, đã đạt tâm nguyện đầy đủ, xa lìa tất cả pháp bất thiện, đầy đủ tất cả pháp thiện, không tham ái, không chấp thủ, không còn các tướng về ngã và ngã sở.

Tất cả trí tuệ đều đã đạt tự tại, đã đoạn các cõi, để từ bỏ không còn các phiền não, đã giải thoát những pháp có thể giải thoát, vận chuyển bánh xe pháp trong luân hồi sanh tử, hậu thiện được tăng trưởng, tiền thiện được hiện tiền, căn lành khiến được giải thoát, giáo hóa tự tại.

Đức Phật hiện ở đời để làm trang nghiêm tạo lợi ích cho chúng sanh. Thế Tôn là con mắt, là trí tuệ, là nghĩa lý, là giáo pháp, là pháp lớn, đối với ba loại chúng sanh, Đức Phật là bậc Thầy dẫn dắt giáo hóa, khiến cho người cũng dẫn dắt.

Làm Thầy, cũng khiến cho người làm Thầy, là đại thương chủ, có thể biết được đường lớn, đường nhỏ, có thể nói được con đường hoàn hảo, là Bậc Đại Y Vương, chuyển luân tối thắng vô thượng trong loài người, là người thọ thân cuối cùng.

Sa Môn, đại Sa Môn đạt đến Sa Môn không cấu không uế, thanh tịnh nhìn khắp, có thể ban ánh sáng, ban con mắt, diệt trừ được tối tăm, là ánh sáng vượt qua biển sanh tử, người chưa an thì khiến được an, đầy đủ tinh tế tối thượng, đầy đủ trí tối thượng, đại dũng mãnh, đại thâu tóm, đại oai đức, đại hùng, đại thần, đại lực, đại dẫn dắt.

Đức Thế Tôn là bậc nhất, Thế Tôn là bậc tối thắng, Đức Thế Tôn thổi loa pháp, đánh trống pháp, dựng cờ pháp, treo phướn pháp và thắp sáng đèn pháp, ngăn đường ác, chỉ bày đượng thiện, diệt trừ điều ác ở thế gian.

Trừ hiểm nạn ở thế gian, dẹp đường xấu ác, khai mở đường Trời, dùng oai lực thần thông chỉ bày con đường giải thoát, ngoài ra còn bằng oai lực của tuệ, diệt tâm mê hoặc của tất cả chúng sanh, tuôn mưa pháp, hiện rõ bốn vô úy.

Như Mặt Trời mới mọc ánh sáng soi chiếu thế gian, dẹp các con đường lầm lỗi, đưa chúng sanh đến cõi Trời an ổn và các quả vị giải thoát, đã tự độ và độ người khác, đã giải thoát và giải thoát cho người khác, đã an ổn và làm an ổn cho người khác, đã nhập Niết Bàn và làm cho người khác được Niết Bàn.

Đức Phật đang ở núi Linh Thứu thuộc nước Ma Già Đà. Vua nước Ma Kiệt Đà là Tần Bà Sa La nghe Đức Phật Thế Tôn cùng một ngàn đại Tỳ Kheo đều là những bậc học kỳ cựu của ngoại đạo, các lậu đã dứt, việc làm đã xong, đã đặt gánh nặng xuống, đạt được lợi mình, dứt hết các kiết sử, đối với các chánh lý tâm được giải thoát…

Vua nghe như vậy nên rất vui mừng, đích thân ngự giá, binh lính trang nghiêm có oai thế lớn, dùng oai lực của Vua, xuất một vạn hai ngàn xe, một vạn tám ngàn binh lính cưỡi ngựa.

Cùng với vô số trăm ngàn Bà La Môn, Cư Sĩ nước Ma Kiệt Đà, đã từ thành Vương Xá đến chỗ Đức Phật, để được gặp Phật và cúng dường. Kiệu xa đến nơi, Vua liền bước xuống xe, đi vào trong khu vườn.

Lúc này, Vua Tần Bà Sa La từ xa trông thấy Phật, liền cởi bỏ năm loại trang nghiêm như: Mũ báu, dù lọng báu, gươm báu, quạt báu, giày báu.

Khi ấy, Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt Đà sửa áo bày vai phải, chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính đảnh lễ ba lần, xưng họ tên: Thưa đại đức! Con là Vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà.

Thưa ba lần như vậy.

Đức Phật nói: Đúng rồi. Ông là Vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà.

Phật cũng nói ba lần như vậy, rồi Ngài nói tiếp: Này Đại Vương! Ông hãy tự về chỗ ngồi.

Vua Tần Bà Sa La, nước Ma Kiệt Đà liền đảnh lễ nơi chân Đức Phật, rồi lui ra một bên.

Bà La Môn, Cư Sĩ nước Ma Kiệt Đà đều ở một chỗ, cũng đảnh lễ nơi chân Phật rồi ngồi qua một bên. Lúc đó, Bà La Môn Cư Sĩ nước Ma Kiệt Đà thưa hỏi Đức Phật, Đức Phật cũng thăm hỏi rồi bảo họ hãy lui ra ngồi một bên.

Các Bà La Môn Cư Sĩ nước Ma Kiệt Đà, chắp tay hướng về Đức Phật đảnh lễ xong, lui ra ngồi một bên. Các Bà La Môn Cư Sĩ nước Ma Kiệt Đà từ xa nhìn thấy Đức Phật ngồi im lặng.

Bấy giờ, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Âu Lâu Tỳ Loa Ca Diếp đang ngồi gần đại chúng.

Các Bà La Môn Cư Sĩ nước Ma Kiệt Đà đều suy nghĩ: Đại Sa Môn này theo Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp học đạo, hay là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp theo Đại Sa Môn này học Đạo?

Đức Phật biết được suy nghĩ của các Cư Sĩ, Bà La Môn nước Ma Kiệt Đà, Ngài hương về Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp dùng kệ hỏi: 

Ngươi Ưu Lâu Tần Loa

Nhờ đã thấy được gì.

Bỏ đạo cúng dường lửa

Mà theo học đạo này?

Những lý do như vậy

Ông hãy nói với ta

Ông đã thờ cúng lửa

Thế sao lại bỏ đi?

Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp đáp:

 Uống ăn các mùi vị

Tham đắm ba loại này

Các tai họa như vậy

Con đã thấy rõ ràng

Nên bỏ đạo thờ lửa

Tâm không sanh an vui.

Đức Phật dạy: 

Tâm ông không an vui

Ăn uống các mùi vị

Vì sao tâm không vui

Đạo tối thắng Trời, người.

Ông hãy trả lời Ta.

Ca Diếp thưa: 

Con thấy diệt vô dư

Đạo tối thắng bậc nhất,

Dục lạc ở thế gian

Tâm không sanh tham đắm.

Không có tướng khác biệt

Không theo lời dạy khác

Vì thế, bỏ thờ lửa

Tâm không sanh an vui.

Khi cúng dường, thờ lửa

Con bỏ tâm tà xưa

Nhờ đó được giải thoát

Con thật là mù tối.

Thuận theo dòng sanh tử

Không biết đạo chân chánh

Nay mới gặp vô vi

Như Lai khéo giảng nói.

Chỗ đại chúng về nương

Thế Tôn: Người dẫn đường

Nay con đã hiểu rõ

Chân lý của Cù Đàm.

Đức Phật dạy: 

Đến với đạo, tu hành

Những niệm ấy đều đúng

Khéo phân biệt pháp tướng

Là đạt được tối thắng.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần