Phật Thuyết Kinh Phật Lên Trời đao Lợi Thuyết Pháp Cho Thân Mẫu - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
PHẬT LÊN TRỜI ĐAO LỢI
THUYẾT PHÁP CHO THÂN MẪU
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN BA
Tâm không tưởng nơi không
Không mạn, không chỗ nghĩ
Không tướng, không chỗ nguyện
Không thể tính hạn lượng.
Biết việc chúng sinh làm
Tùy theo đó mở bày
Tự tại mà ban cho
Thuyết pháp kẻ đói nghèo.
Ban cho chúng sinh
Không nói ta giúp
Với giới không cao
Không quên nhẫn nhục.
Không mạn tinh tấn
Không chấp thiền định
Mà với trí tuệ
Không chỗ keo kiệt.
Thường thích ban cho
Giảng luận các giới
Tu hành, khiêm nhường
Thường hành dũng mãnh.
Tuy nghĩ theo thiền
Nhưng không chỗ chấp
Hưng phát trí tuệ
Mà dùng ban cho.
Ở nơi Duyên Giác
Và trong Thanh Văn
Bồ Tát Đại Sĩ
Du hóa trong đó.
Giả sử trong ấy
Mà có tạo nghiệp
Đại Sĩ mắt sáng
Không thích hạnh ấy.
Nhờ hay tạo dựng
Những pháp như vậy
Mới có thể gọi
Là hạnh Bồ Tát.
Hiểu rõ quyền biến
Không thể nghĩ bàn
Đã lấy tuệ cho
Thật không hạn lượng.
Đức Phật bảo Thiên Tử: Bồ Tát có bốn việc pháp. Tất cả các pháp dùng làm một nghĩa, nhập vào một vị, đưa đến bình đẳng, nhập vào một tuệ nên nói bình đẳng.
Những gì là bốn?
1. Hiểu rõ pháp giới không có chỗ phá hoại.
2. Hiểu các pháp không nên du hóa khắp cả.
3. Với nghĩa các pháp, hình tượng khác nhau, bình đẳng giữa mình ta cùng với người khác.
4. Hiểu rõ các pháp thảy đều đáng sợ.
Hiểu rõ tuệ này, mới thấy như vậy. Với pháp thế tục và pháp xuất thế, thảy đều thông đạt, không tạo thành hai sự xem xét. Hoặc tội, hoặc phước, có chướng ngại hay không chướng ngại.
Hoặc nghe hay không nghe, hữu vi hay vô vi. Đối với các pháp ấy, không tạo, không quán. Không thấy các pháp có sự thọ nhận, không pháp phàm phu, không pháp La Hán, không có để xem xét.
Vì pháp phàm phu thì không thanh tịnh, không xét kỹ pháp La Hán, một mình hiểu rõ, không cao không thấp, phân biệt một nghĩa, vượt qua sự sợ hãi, diễn xướng giảng nói. Tung rải tất cả pháp, mà đối với tất cả pháp, không thấy sự tán mất. Tu hành một nhẫn, vĩnh viễn không hai. Nhờ nhập một nghĩa, nên nhập hết các pháp. Vì cái nhập ấy, không từ đâu sinh.
Cho nên, này Thiên Tử! Bồ Tát Đại Sĩ được gần kề đạo vô thượng chánh chân, thành bậc Chánh Giác cao tột, cũng không nghĩ rằng: Ta đã đến gần hay là còn xa?
Vì sao như vậy?
Vì không dùng lấy một nghĩa để thấy có sự khác, đối với quần sinh, để xem xét thấy người cùng đạo có sự khác biệt.
Lại nữa, người suy nghĩ mà không nắm bắt được mới chính là đạo.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói bài tụng:
Đối với pháp giới
Không chỗ phá hoại
Lại pháp giới ấy
Không thể tan nát.
Kể như pháp giới
Các người như vậy
Chỉ giả có tên
Chẳng có gì cả.
Rõ các pháp không
Chỉ như tiếng vang
Hoặc trong hoặc ngoài
Hữu vi, vô vi.
Quán sát pháp ấy
Đều không sở hữu
Phân biệt một nghĩa
Đều biết là không.
Các pháp đã hiện
Hình tượng không đồng
Không chấp thân mình
Cùng với người khác.
Nếu không chấp niệm
Có tôi, ta, người
Hành động chưa từng
Có bao nhiêu tưởng.
Tu hành lặng yên
Chí luôn lo sợ
Khắp xem tất cả
Các pháp tồn tại.
Với tất cả pháp
Im lặng không nhớ
Ở trong lo sợ
Mà không chỗ chấp.
Giảng thuyết hiện tại
Để cứu việc đời
Họ không hưng khởi
Tạo tận, diệt tận.
Hoặc phước hoặc tội
Hoặc nghe, không nghe
Không nhớ nơi pháp
Không giữ âm thanh.
Không ở hữu vi
Cũng không vô vi
Bình đẳng, nhất quán
Không thích hai việc.
Không thấy các pháp
Có chỗ lãnh thọ
Không được phàm phu
Và A La Hán.
Không nói phàm phu
Si, uế không sạch
Cái đó gọi là
Pháp A La Hán.
Cũng không nâng cao
Cũng không hạ thấp
Phân biệt một nghĩa
Thảy đều lặng yên.
Hiểu rõ các pháp
Đều không chỗ hoại
Cũng không tan rã
Tất cả pháp giới.
Không khác với nhẫn
Lẽ nào khác không!
Biết chắc các pháp
Tất cả đều không.
Không chấp nơi không
Không dựa nơi nhẫn
Nhờ vào một nghĩa
Đều rõ tất cả.
Nó không khởi lên
Vì vốn trong sạch
Tu hành như vậy
Mau thành Phật Đạo.
Sớm được gần kề
Vô lượng Chánh Giác
Không chấp có thân
Không nhớ tâm đạo.
Tất cả các pháp
Tôi, ta và người
Đều không chỗ chấp
Được giác bình đẳng.
Đức Phật bảo Thiên Tử: Bồ Tát có bốn việc pháp để phụng trì cấm giới sâu dày và thực hành không buông lung.
Những gì là bốn?
Bồ Tát Đại Sĩ nên tự nghĩ rằng: Sao gọi là cấm giới?
Để tùy thuận xem xét, suy nghĩ nghĩa ấy?
Hoặc thân làm điều lành, lời nói chí thành, tâm nhớ nghĩ dịu dàng thuận thảo. Đó là cấm giới.
Lại nghĩ như vậy: Sao là thân làm điều lành?
Sao là lời nói chí thành?
Sao là tâm dịu dàng?
Đó là vì thân không phạm các việc của thân, nên không sát sinh, trộm cướp, dâm dật. Đó là thân làm điều lành.
Miệng không nói lời lỗi lầm, nói dối, nói hai lưỡi, nói lời hung ác, sàm tấu. Đó là miệng nói lời thành thật.
Tâm không nghĩ những điều sai quấy, nghĩ những việc sân hận, tà kiến. Đó gọi là tâm dịu dàng.
Bồ Tát ấy quán sát kỹ, nên tự nghĩ rằng: Giả sử, có người không phạm thân, miệng và tâm, nhưng không thể phân biệt về nơi chỗ. Những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, hồng đang tồn tại, lại chấp nơi con mắt không biết phân biệt. Đối với tai, mũi, miệng và tâm, cũng giống như vậy. Cũng không biết phân biệt.
Vì sao như vậy?
Vì nó cũng chẳng sinh, cũng là không sinh. Cũng không khởi là cũng chẳng không khởi. Giả sử không có sinh, không bị sinh. Cũng không có khởi, không bị khởi, thì sẽ không thể đảm nhận sự phân biệt pháp thức.
Họ lại nghĩ rằng: Trong khi xem xét sẽ không có sở hữu, cũng không có giới nên không có chỗ hành, đã không chỗ hành nên không thể biết. Vì không thể biết, đối với nó, lẽ ra không nên có sự chấp dựa. Nếu tạo hành động ấy, thì không chỗ để thấy. Ngay vào lúc ấy, không thấy có giới, đã không thấy giới mà khuyên người giữ giới cũng là vô sở kiến.
Vì vậy, cho nên này Thiên Tử! Đó gọi là Bồ Tát Đại Sĩ phụng trì cấm giới sâu dày.
Lại nữa, này Thiên Tử! Cũng có Bồ Tát hiểu rõ không tham đắm bản thân, không có thấy thân, cũng không thấy cái thấy, tu sự trì giới, cũng không phạm giới, cũng không chỗ chấp.
Lại nữa, này Thiên Tử! Bồ Tát Đại Sĩ nhập sâu vào tạng pháp, để giữ giới cấm, oai nghi lễ tiết, đi đứng, tới lui, an nhiên rõ ràng, thuận theo lời dạy, nên gọi là giới. Không tự thấy mình có sự khởi hạnh, không thấy lỗi lầm của người khác, cho nên gọi là giới sâu xa tốt đẹp.
Này Thiên Tử! Bồ Tát không phạm giới cũng không hủy giới, lại càng không khinh lờn giới. Ai chống lại mình là chống lại giới. Nếu không chống lại mình, thì không chống lại giới. Nếu không chống lại giới, thì không phạm giới.
Nếu không phạm giới sẽ không khinh lờn giới, liền không có gì để độ. Sở dĩ không khinh lờn, không vượt qua giới, nên hiểu rõ tất cả pháp đều được độ thoát. Nhờ độ thoát, nên không có ngã, cũng không vô ngã. Đã không có người, thì ai được độ. Đó là bốn pháp.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói bài tụng:
Thân họ thanh tịnh
Lời không lỗi lầm
Tâm niệm trong sáng
Hành động không dơ.
Thường tự gìn giữ
Cẩn thận khi làm
Vị Bồ Tát ấy
Mới là thờ giới.
Tùy thuận phụng hành
Đối với mười lành
Bồ Tát thông minh
Mới bảo vệ được.
Nên thân miệng ý
Không bị phạm lỗi
Như vậy mới gọi
Phụng giới sáng suốt.
Không chỗ họ tạo
Không khởi, không sinh
Nó không hình sắc
Không có nơi chốn.
Đã không tướng mạo
Nên không chỗ trụ
Liền không thể được
Chỗ nào quay về.
Giới không có tạo
Thường như vô tri
Nên không thể lấy
Khi mắt xem xét.
Tai không thể nghe
Không mũi, không lưỡi
Thân không tách rời
Và tâm nhớ nghĩ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tiên Trí
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tiễn
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội - Phẩm Ba - Phẩm Cử Bát - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Ba - Phẩm Xá Lê Tử Tương ưng - Kinh đại Câu Hi La
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bảy - Phẩm Trường Thọ Vương - Kinh Bát Niệm