Phật Thuyết Kinh Quang Tán - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Tam Muội - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH QUANG TÁN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM MƯỜI SÁU
PHẨM TAM MUỘI
TẬP MỘT
Hiền Giả Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Đức Thiên Trung Thiên, sao gọi là thệ nguyện rộng lớn của pháp đại thừa của Đại Bồ Tát?
Sao gọi là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát?
Người học đại thừa thệ nguyện gì đối với thừa?
Thừa trụ chỗ nào?
Từ đâu sinh?
Trong thừa, ai là người thành tựu thừa?
Phật bảo Hiền Giả Tu Bồ Đề: Như lời Tu Bồ Đề hỏi, sao gọi là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát?
Sáu pháp Ba la mật tức là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Những gì là sáu?
Thí Ba la mật, giới Ba la mật, nhẫn Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền Ba la mật, bát nhã Ba la mật.
Sao gọi là Thí Ba la mật?
Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát phát tâm tôn sùng trí nhất thiết mà hành Bố thí. Tất cả sở hữu trong ngoài đều không tiếc, dùng chúng cấp pháp cho chúng sinh để cho họ được vững vàng an ổn, chẳng đề phòng oán địch, tức là dùng để khuyến khích hỗ trợ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đó là Thí Ba la mật của Đại Bồ Tát.
Sao gọi là giới Ba la mật của Đại Bồ Tát?
Đại Bồ Tát phát tâm tôn sùng trí nhất thiết, thân tự phụng hành mười điều thiện. Lại dùng mười điều thiện đó khuyến khích trợ giúp người chẳng theo điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là giới Ba la mật của Đại Bồ Tát, không quên mất, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc.
Hiền Giả Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là nhẫn Ba la mật của Đại Bồ Tát?
Đức Phật bảo Hiền Giả Tu Bồ Đề: Đại Bồ Tát tự thân đã viên mãn Nhẫn nhục, giáo hóa cho người đối với Nhẫn nhục không rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là nhẫn Ba la mật của Đại Bồ Tát.
Hiền Giả Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là tinh tấn Ba la mật của Đại Bồ Tát?
Đức Phật bảo Hiền Giả Tu Bồ Đề: Đại Bồ Tát phát tâm tôn sùng trí nhất thiết, đối với năm pháp Ba la mật chẳng lơ là xa cách, dùng năm pháp Ba la mật giáo hóa chúng sinh, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là tinh tấn Ba la mật của Đại Bồ Tát.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Thế Tôn: Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là thiền Ba la mật của Đại Bồ Tát?
Đức Phật bảo Tu Bồ Đề: Đại Bồ Tát phát tâm tôn sùng trí nhất thiết, tự thân thường dùng phương tiện thiện xảo hành thiền tam muội, chẳng tùy thuận theo tam muội mà sinh, cũng dạy người khiến học thiền định, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là thiền Ba la mật của Đại Bồ Tát.
Hiền Giả Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Sao gọi là bát nhã Ba la mật của Đại Bồ Tát?
Đức Phật bảo Tu Bồ Đề: Đại Bồ Tát phát tâm tôn sùng trí nhất thiết, đối với tất cả pháp, không nương tựa, quán các pháp, tất cả vốn là thanh tịnh, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đối với tất cả pháp, không chấp trước.
Vì quán các pháp, tất cả vốn là thanh tịnh nên dùng pháp này để giáo hóa chúng sinh, chẳng rơi vào điên đảo, cũng không sở đắc. Đó là bát nhã Ba la mật của Đại Bồ Tát. Đó là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát là trong không, ngoài cũng không, trong ngoài đều không, không cũng không, cho đến hoàn toàn không, chân diệu không, thanh tịnh không, hữu vi không, vô vi không, tướng tự nhiên không, tất cả pháp không, không sở đắc không, không có không, tự nhiên không, hữu sở kiến không, vô sở kiến không.
Sao gọi là trong không?
Đó là pháp bên trong: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Cái gọi là mắt và những gì mà mắt thấy cũng đều là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Tai và những điều tai nghe cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Mũi và những mùi mũi ngửi cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Lưỡi và những vị mà lưỡi nếm cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Thân và những xúc chạm của thân cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Tâm và những ý nghĩ của tâm cũng là không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là trong không.
Sao gọi là ngoài không?
Pháp ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đã là sắc thì sắc cũng là không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy là không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh.
Sao gọi là pháp trong ngoài không?
Sáu nhập bên trong, sáu nhập bên ngoài là pháp trong ngoài không, chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là pháp trong, pháp ngoài đều không.
Sao gọi là không cũng không?
Nghĩa là tất cả pháp là không, các pháp là không, không này cũng không. Đó là không không.
Sao gọi là hoàn toàn không?
Nghĩa là phương Đông cũng không, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Đông Nam, phương Tây Nam, phương Tây Bắc, phương Đông Bắc, phương Trên, phương Dưới cũng đều không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là hoàn toàn không.
Sao gọi là chân diệu không?
Nghĩa là vô vi, cái vô vi ấy cũng không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là chân diệu không.
Sao gọi là sở hữu không?
Sở hữu không là Cõi Dục, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc cũng đều không, chẳng thể làm tổn thương, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là sở hữu không.
Sao gọi là vô vi không?
Gọi là vô vi không là chẳng khởi, chẳng diệt, cũng chẳng tự tại, cũng không chỗ trụ, chân đế thường tại. Đó là vô vi không. Đã gọi là vô vi không thì cái vô vi đó chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh.
Sao gọi là rốt ráo không?
Rốt ráo không là chẳng thể đạt tới bến bờ.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là rốt ráo không.
Sao gọi là quảng viễn không?
Nghĩa là chẳng thấy đến, cũng không sở đắc.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là quảng viễn không.
Sao gọi là không phân biệt không?
Đó là pháp không thể bỏ, cũng không chỗ trụ.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là không phân biệt không.
Sao gọi là bản tịnh không?
Có khả năng hiểu rõ tất cả các pháp vốn là thanh tịnh, hữu vi, vô vi chẳng phải là pháp Thanh Văn tạo ra, chẳng phải là pháp Bích Chi Phật tạo ra. Đó là bản tịnh không.
Sao gọi là tất cả pháp không?
Tất cả pháp, nghĩa là sắc thọ, tưởng, hành, thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân xúc thức, ý pháp thức, nhãn xúc, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc, các thọ, pháp hữu vi, vô vi. Đó là tất cả pháp không. Pháp không của các pháp chẳng thể làm thương tổn, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là tất cả pháp không.
Sao gọi là tướng tự nhiên không?
Gọi là tướng của sắc mà sắc thì không có tướng sở hữu. Tướng thọ tưởng tạo ra tướng hành. Biết tướng hành, thức thì thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mười tám chủng, tất cả xúc, tướng của pháp hữu vi, tướng của pháp vô vi, tất cả pháp là tướng tự nhiên không.
Sao gọi là chẳng thể nắm bắt được không có sở hữu không?
Tất cả các pháp cũng chẳng thể nắm bắt được, không thể hủy hại, chẳng thể hoại, khởi.
Vì sao?
Vì vốn thanh tịnh. Đó là chẳng thể nắm bắt được không có sở hữu không.
Sao gọi là không sở hữu không?
Tìm cầu hình dáng sở hữu nhưng chẳng thể nắm bắt được. Đó là không sở hữu không.
Sao gọi là tự nhiên không?
Không hợp hội là tự nhiên. Đó là tự nhiên không.
Sao gọi là không sở hữu tự nhiên không?
Cái tự nhiên ấy không có hợp hội. Đó là không sở hữu tự nhiên không.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Cái sở hữu ấy là sở hữu không, cái vô sở hữu ấy là vô sở hữu không. Tự nhiên là tự nhiên không. Vì người khác nên người khác cũng không.
Sao gọi là sở hữu của sở hữu là không?
Đó là năm ấm. Sở hữu của năm ấm ấy là sở hữu không. Đó là sở hữu của sở hữu là không.
Sao gọi là vô sở hữu của vô sở hữu là không?
Đó là vô vi. Cái vô vi ấy là vô vi cho nên không. Đó là vô sở hữu của vô sở hữu là không.
Sao gọi là tự nhiên của tự nhiên là không?
Cái không ấy tức là không có tướng, cũng không có tạo tác, cũng không có cái thấy. Đó là tự nhiên không.
Sao gọi là vị tha cho nên không?
Giả sử Đức Như Lai xuất hiện, hoặc Như Lai không xuất hiện thì pháp ấy vẫn thường trụ. pháp giới ấy cũng tịch diệt cho nên vốn không, mà cái vốn không ở đây tức là bản tế. Cái ấy đối với cái này là vị tha không. Đó là vị tha cho nên không.
Này Tu Bồ Đề! Đó gọi là pháp đại thừa của Đại Bồ Tát.
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Pháp đại thừa của Đại Bồ Tát là tam muội Thủ Lăng Nghiêm, lại có tam muội tên là Thật ấn, có tam muội tên là Sư tử ngu lạc, có tam muội tên là Thiện nguyệt, có tam muội tên là Nguyệt tràng anh, có tam muội tên là nhất thiết pháp siêu thượng, có tam muội tên là Quán đảnh, có tam muội tên là Phân biệt nhất thiết pháp.
Có tam muội tên là Liễu tràng anh, có tam muội tên là Kim cang dụ, có tam muội tên là Nhập pháp ấn, có tam muội tên là Phóng quang vô sở đoạt, có tam muội tên là Định ý vương, có tam muội tên là Thiện trụ, có tam muội tên là Phóng quang, có tam muội tên là Lực tinh tấn, có tam muội tên là Đẳng siêu, có tam muội tên là Phân biệt tùy thuận.
Có tam muội tên là Nhập chư ngữ, có tam muội tên là Chiếu chư phương diện, có tam muội tên là Tổng trì ấn, có tam muội tên là Vô sở đoạt, có tam muội tên là Đẳng ngự chư pháp hải ấn, có tam muội tên là Phổ biến Hư Không, có tam muội tên là Kim cang Đạo Tràng, có tam muội tên là Thắng chư bảo, có tam muội tên là Chiếu minh.
Có tam muội tên là Bất huyến, có tam muội tên là Trụ bất cứu cánh, có tam muội tên là Quyết liễu, có tam muội tên là Ly cấu đăng minh, có tam muội tên là Vô lượng quang, có tam muội tên là Quang tạo, có tam muội tên là Phổ chiếu, có tam muội tên là Tịnh ngự định, có tam muội tên là Ly cấu minh, có tam muội tên là Vi ngu lạc cố.
Có tam muội tên là Tuệ đăng, có tam muội tên là Vô tận, có tam muội tên là Oai thần cụ, có tam muội tên là Trừ tận, có tam muội tên là Vô đặc, có tam muội tên là Khai thông, có tam muội tên là Nhựt đăng minh, có tam muội tên là Nguyệt ly cấu, có tam muội tên là Tịnh chiếu minh, có tam muội tên là Hữu sở chiếu diệu, có tam muội tên là Tác đương sở tác.
Có tam muội tên là Tuệ anh, có tam muội tên là Thí kim cang, có tam muội tên là Thiện kiến chí, có tam muội tên là Bảo tích, có tam muội tên là Siêu pháp ấn, có tam muội tên là pháp phổ, có tam muội tên là Thắng ngu lạc, có tam muội tên là Độ pháp đảnh, có tam muội tên là Hữu sở phá hoại, có tam muội tên là Phân biệt chư cú, có tam muội tên là Đẳng tạo tự.
Có tam muội tên là Ly văn tự, có tam muội tên là Trừ đoạn duyên, có tam muội tên là Ly sở tác, có tam muội tên là Vô sở tác, có tam muội tên là Hành bất sử liễu, có tam muội tên là Trừ minh, có tam muội tên là Hành tích, có tam muội tên là Vô động, có tam muội tên là Độ cảnh giới, có tam muội tên là Quyết nhất thiết đức, có tam muội tên là Quyết sở trú.
Có tam muội tên là Thanh tịnh nghiêm hoa, có tam muội tên là Giác ý cú, có tam muội tên là Vô lượng đăng minh, có tam muội tên là Đẳng vô đẳng, có tam muội tên là Độ nhất thiết pháp, có tam muội tên là Đoạn tuyệt cố, có tam muội tên là Ly sở tác, có tam muội tên là Ly sở trụ, có tam muội tên là Nhất nghiêm tịnh, có tam muội tên là Ngự hành sự.
Có tam muội tên là Nhất sự cố, có tam muội tên là Chế chư sự, có tam muội tên là Trừ yểm nhất thiết sở tác, có tam muội tên là Nhập duyên hợp tượng âm, có tam muội tên là Thoát âm giáo văn tự ngôn, có tam muội tên là Quang hiểm xí thạnh, có tam muội tên là Tướng nghiêm tịnh, có tam muội tên là Vô tướng.
Có tam muội tên là Tạo nhất thiết chư cụ, có tam muội tên là Bất duyệt nhất thiết khổ lạc, có tam muội tên là Vô tận cố, có tam muội tên là Tổng trì cú, có tam muội tên là Ái hộ nhất thiết chánh tà, có tam muội tên là Nhập nhất thiết chư sắc vô sắc, có tam muội tên là Vô âm đoạn âm, có tam muội tên là Ly cấu diệu, có tam muội tên là Ngự cố yếu.
Có tam muội tên là Ly cấu mãn nguyệt, có tam muội tên là Đại nghiêm tịnh, có tam muội tên là nhất thiết quang thế minh cố, có tam muội tên là Phổ minh, có tam muội tên là Ngự không.
Có tam muội tên là Đẳng ngự, có tam muội tên là Vô thanh cứu cánh vô sở ngu lạc, có tam muội tên là Cứu cánh vô bổn trụ, có tam muội tên là Thân thời an tường, có tam muội tên là Khẩu ngôn thời quyên trừ Hư Không niệm, có tam muội tên là Thoát hư vô sắc vô sở trước.
Tất cả là một trăm mười định.
Sao gọi là tam muội Thủ lăng nghiêm?
Định ý ấy đều nhập vào hạnh của tất cả các tam muội. Đó gọi là tam muội Thủ lăngnghiêm.
Sao gọi là tam muội Thật ấn?
Dùng định ý này ấn tất cả tam muội. Đó gọi là tam muội Thật ấn.
Sao gọi là tam muội Sư tử ngu lạc?
Khi trụ định ý này đều làm vui vẻ tất cả định ý. Đó gọi là tam muội Sư tử ngu lạc.
Sao gọi là tam muội Thiện nguyệt?
Khi trụ định ý này, tất cả đều bình đẳng, không có sở hữu. Đó gọi là tam muội Thiện nguyệt.
Sao gọi là tam muội Nguyệt tràng anh?
Khi trụ tam muội định ý ấy, thì dùng định ý nắm hết tất cả các tam muội tràng. Đó gọi là tam muội Nguyệt tràng anh.
Sao gọi là tam muội Siêu nhất thiết pháp thượng?
Khi trụ định ý ấy, tất cả đều đạt đến sự bình đẳng. Đó gọi là tam muội Siêu nhất thiết pháp thượng.
Sao gọi là tam muội Quán đảnh?
Khi trụ định ý ấy, thì liền quán thấy các đảnh định ý của tất cả tam muội. Đó gọi là tam muội Quán đảnh.
Sao gọi là tam muội Phân biệt pháp giới?
Khi trụ định ý ấy, thì có thể phân biệt các pháp giới. Đó gọi là tam muội Phân biệt pháp giới.
Sao gọi là tam muội Quyết liễu tràng anh?
Khi trụ định ý ấy, thì tất cả định ý rốt ráo chấp tràng. Đó gọi là tam muội Quyết liễu tràng anh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Bảy Mươi Bốn - Phẩm Giáo Hội Chúng Sinh
Phật Thuyết Kinh Bất Tư Nghị Công đức Chư Phật Sở Hộ Niệm - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Sư Tử Hống - Phần Bảy - Khổ Hạnh Của Bồ Tát
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Học - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Hai Mươi Bốn - Quán