Phật Thuyết Kinh Sinh Ra Tâm Bồ đề - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT
KINH SINH RA TÂM BỒ ĐỀ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẦN HAI
Lại nữa, thế nào là A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề?
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện tự phát tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, cũng lại dạy người khác phát tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, đã khiến cho kẻ ấy trụ, lại vì người nói Kinh Điển như vậy đều khiến thọ trì, gần gũi nhóm Phú Già La như thừa sự cúng dường.
Nếu có người đến với người chẳng đến cũng đều cung kính, cũng sinh tùy vui. Như giải thoát tự lợi lợi tha này. Do làm lợi ích cho nhiều người, thương xót thế gian, lợi ích an vui cho các hàng Trời Người cho nên gọi là A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Do nghĩa nào mà gọi là A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề?
Ở bên trên, trọn không có gì hơn để có thể cầu. Chính vì thế cho nên gọi là A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này một lần nữa, nên dùng kệ tụng là:
Tự phát tâm bồ đề
Chẳng dạy người thọ trì
Nhân sức của tâm mình
Sau cùng Bát Niết Bàn Parinirvanïa
Vì tự lợi cần cù
Chẳng dạy người thọ trì
Nên gọi là Sa Môn
Phật Tử Tối Thắng Sư
Kẻ phát tâm bồ đề
Giáo hóa sinh vui vẻ
Vì thế tự đắc đạo
Quả báo biết như vậy
Tự thành chẳng thành tha khiến người khác thành tựu
Ruộng phước trong các Tiên
Được gọi là Duyên Giác
Bà La Môn nên biết
Tự phát tâm bồ đề
Độ thoát nhiều chúng sinh
Vì đời làm lợi ích
Gọi là Phật Đạo Sư
Thành tựu tự lợi ích
Lại khiến người giải thoát
Đây đó không sai biệt
Gọi là bất tư nghị.
Bấy giờ Ca Diếp Bà La Môn bạch Phật rằng: Thế Tôn! Giải thoát, giải thoát có sai biệt chăng?
Đức Phật nói: Này Bà La Môn! Giải thoát đối với giải thoát không có sai biệt. Đạo đối với đạo không có sai biệt. Thừa đối với thừa thì có sai biệt. Ví như con đường của Vua vương lộ có xe voi, có xe ngựa, có xe lừa. Nhóm ấy theo thứ tự ở trên con đường ấy đi đến một cái thành.
Này Bà La Môn! Cỗ xe của nhóm như vậy có sai biệt chăng?
Bà La Môn nói: Đại Đức Thế Tôn! Các cỗ xe ấy quả thật có sai biệt.
Đức Phật nói: Như vậy! Như vậy Bà La Môn! Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật Thừa, A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề có sai biệt. Còn đạo và giải thoát không có sai biệt.
Này Bà La Môn! Ví như Sông Hằng có ba loại người từ bờ bên này đi đến bờ bên kia. Người đầu tiên dùng cỏ làm bè, dựa vào đó để vượt qua. Người thứ hai hoặc dùng cái túi bằng da thú, hoặc dùng thuyền bằng da thú rồi dựa vào đó để vượt qua. Người thứ ba tạo làm cái thuyền lớn đưa xuống sông, ở trong cái thuyền này chở được trăm ngàn người.
Người thứ ba ấy lại sai người con lớn trưởng tử an trí thủ hộ như cái thuyền phảng thuyền bành, hai thuyền áp mạn nhau, hết thảy chúng sinh đi đến theo ông từ bờ bên này vượt qua đến bờ bên kia, vì nhiều nhóm người làm việc lợi ích.
Này Bà La Môn! Ý ông thế nào?
Bờ bên kia có sai biệt chăng?
Bà La Môn nói: Bạch Đức Thế Tôn! Chẳng hề sai biệt.
Đức Phật lại hỏi rằng: Này Bà La Môn! Ý ông thế nào?
Vật dùng để chuyên chở ấy có sai biệt chăng?
Bà La Môn nói: Vật đã dùng để chuyên chở thật có sai biệt.
Đức Phật nói: Như vậy! Như vậy Bà La Môn! Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật Thừa, A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề quả thật có sai biệt.
Này Bà La Môn! Như người thứ nhất y dựa vào cái bè cỏ từ bờ bên này đi đến bờ bên kia, chỉ có một không có hai. Thanh Văn Thừa nên biết như vậy.
Người thứ hai, hoặc dựa vào cái túi bằng da với dùng cái thuyền bằng da từ bờ bên này vượt qua đến bờ bên kia. Bích Chi Phật Bồ Đề nên biết như vậy.
Này Bà La Môn! Người thứ ba thành tựu con thuyền lớn cùng với nhiều nhóm người từ bờ bên này đi đến bờ bên kia. Như Lai Bồ Đề nên biết như vậy.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này một lần nữa, nên nói kệ là:
Lộ con đường với giải thoát không có trên
Các thừa thảy đều có sai biệt
Bậc Trí như vậy nên lường tính
Nên chọn thừa tối thắng tối thượng
Các pháp giáo như vậy
Chánh Giác nói lời này
Chọn lựa các pháp xong
Bậc Thắng Thắng Giả cần phải học.
Bấy giờ Ca Diếp Bà La Môn lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát nên hành thế nào?
Niệm trụ thế nào để được đến Ma Ha Diễn?
Thời Đức Phật bảo Ca Diếp Bà La Môn rằng: Này Bà La Môn! Ông hãy lắng nghe nghĩa đó.
Nếu các Bồ Tát Ma Ha Tát như niệm tu hành, đến Ma Ha Diễn.
Này Bà La Môn! Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện tự phát tâm bồ đề, cũng dạy người khác phát tâm, tự thích tu hành, khuyên người khác tu hành cũng khiến cho người khác trụ.
Lại vì họ giải thích nghĩa của Tu Đa La Sutra: Khế Kinh như vậy. Người Phú Già La của nhóm như vậy chẳng đến gần gũi, nương nhận, tiếp việc… nên dùng bốn nhiếp mà nhiếp lấy.
Nhóm nào là bốn?
Ấy là: Bố thí, ái ngữ nói lời yêu thương, lợi ích, đồng sự cùng làm việc chung.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này một lần nữa, nên nói kệ là:
Mọi loại bố thí lớn
Tất cả vật đã có
Muốn nhiếp thọ người khác
Bậc Bồ Tát vô úy
Thị hiện đường tiếp dẫn
Chúng sinh chẳng y đến
Hay dùng lời Diệu Thiện
Cõi cõi sẽ an úy
Vi ta người tự tha an vui
Chốn lành thiện xứ đã sinh ấy
Ngày đêm thường tùy thuận
Nhóm chúng sinh như vậy
Chẳng tin, dạy khiến tin
Phá giới, khiến trụ giới
Keo kiệt, khiến bố thí
Tất cả khéo lợi ích
Dạy người hành bồ đề
Bền chắc thường tinh tiến
Đồng ở việc lợi ích
Bậc trí như giáo hành
Như bậc trí tuệ này
Đạo Sư của Bồ Tát
Điều trí tuệ đã hành
Thường thích pháp đại thừa
Dũng mãnh, tối thắng đấy
Bậc trí cần phải học
Dùng thắng pháp ấy nên
Tối thắng đến bờ kia.
Bấy giờ Ca Diếp Bà La Môn lại dùng kệ tụng mà bạch Phật rằng:
Đại đức bày hạnh ấy
Bồ Tát, các Đạo Sư
Nên học chỗ hành ấy
Được đến Lưỡng Túc Tôn
Vì con nói hạnh ấy.
Với hành hạnh sở y
Chỗ nương tựa của hạnh
Bồ đề sâu rộng lớn
Nguyện Từ Mẫn diễn nói.
Lúc đó Đức Thế Tôn bảo Ca Diếp Bà La Môn rằng: Lành thay Bà La Môn! Các Bồ Tát có ba loại hạnh.
Nhóm nào là ba?
Ấy là: Thiên hạnh, phạm hạnh, Thánh hạnh.
Điều gì ở bên trong gọi là thiên hạnh?
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện dùng từ thân nghiệp nghiệp của thân hiền lành đem lại niềm vui, dùng từ ý nghiệp nghiệp của ý hiền lành đem lại niềm vui, dùng từ khẩu nghiệp nghiệp của miệng hiền lành đem lại niềm vui tràn khắp vô lượng Thế Giới ở phương Đông, từ hạnh hạnh hiền lành tràn đầy.
Hành điều này khắp xong, lại hay khéo vào phương Nam Tây Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới đều dùng từ thân nghiệp, từ ý nghiệp, từ khẩu nghiệp tràn đầy khắp cả. Đấy gọi là thiên hạnh.
Điều gì ở bên trong gọi là phạm hạnh?
Ấy là bốn vô lượng.
Nhóm nào là bốn?
Từ, bi, hỷ, xả. Đấy gọi là phạm hạnh.
Này Bà La Môn! Điều gì ở bên trong gọi là Thánh hạnh?
Ấy là ba giải thoát.
Nhóm nào là ba?
Không, vô tướng, vô nguyện. Đấy gọi là Thánh hạnh.
Khi ấy Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này một lần nữa, nên nói kệ là:
Dũng mãnh hành tinh tiến
Đạo Sư của Bồ Tát
Nếu có đủ Thiên hạnh
Người đó thích bồ đề
Thánh hạnh với phạm hạnh
Hạnh đó, Thánh đã nói
Nếu có người tu hành
Người đó được bất động.
Bấy giờ Ca Diếp Bà La Môn lại dùng kệ này mà bạch Phật rằng:
Con thích bồ đề sâu
Nay hỏi Đại Đạo Sư
Nhóm này, đời đương lai
Làm sao tập các hạnh
Vì chúng sinh sau này
Nên con hỏi Thế Tôn
Ở trong Phật Bồ Đề
Ý con không phân biệt
Khiến con phát đạo tâm
Lợi ích cho chúng sinh.
Khi ấy Đức Thế Tôn lại dùng kệ tụng bảo Ca Diếp Bà La Môn ấy rằng:
Nói Tu Đa La này
Khiến phát đại bồ đề
Phạm Chí! Phật bồ đề
Chưa từng có phân biệt
Nói Tu Đa La này
Khiến phát đại bồ đề
Hay chặt tất cả nghi
Tùy thuận chúng sinh hỏi
Nói Tu Đa La này
Khiến phát đại bồ đề
Hay chặt tất cả nghi
Xứng ước muốn chúng sinh
Người được nghe Kinh này
Ở trong đời vị lai
Hay hành bố thí lớn.
Đến ở đàn bỉ ngạn
Dàna pàramità: Bố thí Ba la mật
Người được nghe Kinh này
Ở trong đời vị lai
Hộ giữ giới không khuyết
Đến ở giới bỉ ngạn
Sìla pàramità: Trì giới Ba la mật
Người được nghe Kinh này
Ở trong đời vị lai
Hành nhẫn vì chúng sinh
Đến ở nhẫn bỉ ngạn
Ksïànti pàramità: Nhẫn nhục Ba la mật
Người được nghe Kinh này
Ở trong đời vị lai
Tinh tiến vì chúng sinh
Đến ở tinh tiến ngạn
Vìrya pàramità: Tinh tiến Ba la mật
Người được nghe Kinh này
Ở trong đời vị lai
Thường vào các thiền định
Đến ở thiền bỉ ngạn
Dhyàna pàramità: Thiền định Ba la mật
Người được nghe Kinh này
Ở trong đời vị lai
Vì chúng cầu thắng trí
Đến ở trí bỉ ngạn
Prajnõà pàramità: Trí tuệ Ba la mật
Đã từng làm cúng dường
Thương xót các chúng sinh
Được nghe Kinh Điển này
Đời sau đến tay ấy
Tỳ Kheo trụ lan nhã
Ý muốn Phật Bồ Đề
Người được nghe Kinh này
Nơi cuối cùng, trước được
Số ức Phật quá khứ
Đã trì Kinh Điển này
Vì lợi các Bồ Tát
Phát khởi ý mong muốn
Nếu có Bà La Môn
Ưa muốn Phật bồ đề
Lúc đó được tin xong
Kinh đấy đến bàn tay
Ta thấy chúng sinh ấy
Thảy biết hành của họ
Cũng biết tên kẻ ấy
Ta thấy đều không ngại
Tất cả khó nói đủ
Sợ mê người vị lai
Sợ họ khởi các lỗi
Vì thế nói chút phần.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Chín - Pháp Hội Hư Không Mục - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật - Phần Mười Ba
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Mười Tám
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Hai - Phẩm Xá Lợi Tử - Phần Hai