Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Năm Mươi Hai - Phẩm đại ái đạo Nhập Niết Bàn - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG NHẤT A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn
PHẨM NĂM MƯƠI HAI
PHẨM ĐẠI ÁI ĐẠO NHẬP NIẾT BÀN
PHẦN BỐN
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc giết trăm người em khác mẹ, bèn ôm lòng hối hận: Ta làm việc rất ác, lại hành động thế này, do Vương vị nên giết trăm người.
Ai có thể trừ mối lo buồn cho ta?
Vua Ba Tư Nặc lại khởi nghĩ: Chỉ có Thế Tôn hay trừ bỏ mối lo của ta.
Vua lại nghĩ: Nay ta không nên ôm mối lo buồn này, im lặng đến chỗ Thế Tôn, nên chuẩn bị nghi thức Vua đến chỗ Thế Tôn.
Vua Ba Tư Nặc bảo Quần Thần: Các ông sửa soạn xa giá, xe Vũ Bảo, như pháp các Vua thuở trước, ta muốn ra khỏi thành Xá Vệ, đến thăm Đức Thế Tôn.
Quần Thần nghe Vua ra lệnh, liền trang nghiêm xa giá, xe vũ bảo, đến tâu Vua: Xa giá đã xong, xin Bệ Hạ biết đúng thời. Vua Ba Tư Nặc liền ngự trên xe báu, đánh chuông đánh trống, treo phan lọng, tùy tùng đều mặc giáp khí, quần thần vây quanh ra khỏi thành Xá Vệ. Đến vườn Kỳ Hoàn đi bộ vào Tinh Xá. Theo phép các Vua trước, dẹp năm nghi vệ như dù, mũ, quạt, kiếm, giày.
Vua đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu sát đất, lại lấy tay sờ bàn chân Thế Tôn, rồi tự bạch rằng: Nay con hối quá, sửa lỗi cũ, do ngu si không biết chân ngụy, giết trăm người em khác mẹ vì tranh thế lực ngôi Vua. Từ nay trở đi, con tự cải hối, cúi xin nạp thọ.
Phật bảo Nhà Vua: Lành thay, Ðại Vương! Hãy trở về chỗ ngồi, nay ta sẽ thuyết pháp. Vua Ba Tư Nặc bèn đứng dậy lễ Phật, trở về chỗ ngồi.
Phật bảo Nhà Vua: Mạng người ất nguy ách, tuổi thọ tột cùng không quá trăm năm, tính ra không bao nhiêu người thọ đến trăm tuổi. Một ngày một đêm ở Cõi Trời Ba Mươi Ba, tính theo ngày đêm cõi ấy, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, tuổi thọ Cõi Trời Ba Mươi Ba là một ngàn năm, tính ra thọ mạng cõi người là mười vạn năm.
Lại tính một ngày một đêm ở địa ngục Hoàn Hoạt, tính theo ngày đêm ở đó, ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, địa ngục Hoàn Hoạt sống năm ngàn năm, hoặc thọ nửa kiếp hoặc thọ một kiếp tùy theo hành động của người, hoặc có khi chết nửa chừng tính theo thọ mạng cõi người là trăm ức năm.
Người trí thường nhớ nghĩ tu hạnh này, lại làm ác để chỉ vui ít khổ nhiều tai ương khó kể. Thế nên Ðại Vương đừng vì thân mình cùng Phụ Mẫu, Thê Tử, Quốc Độ, nhân dân mà làm nghiệp tội, cũng chớ vì thân Vua mà làm gốc tội.
Cũng như chút mật dính dao, trước ngọt sau khổ, đây cũng lại như thế, ở trong thọ mạng căn, tạo ác làm gì?
Ðại Vương nên biết! Có bốn điều sợ hãi lớn hằng bức ngặt thân người, trọn không thể chế phục, cũng chẳng thể dùng chú thuật chiến đấu, thuốc men có thể trừ.
Sanh, lão, bệnh, tử cũng như bốn núi lớn từ bốn phía đến cùng ép vào, xô dẹp cây cối thảy đều hủy diệt. Bốn việc này cũng lại như thế.
Ðại Vương nên biết! Khi sanh đến, khiến cha mẹ lo sợ không thể tính kể. Nếu già đến, không còn trẻ mạnh, hình thể bại hoại gân cốt chậm chạp. Khi bệnh đến vào lúc tráng niên, không có khí lực mạng dần rút ngắn. Nếu chết đến, chấm dứt mạng căn, ân ái biệt ly năm ấm phân tán.
Ðại Vương! Ðó gọi là có bốn điều lớn không được tự tại. Nếu có người gần gũi sát sanh thì sẽ chịu các khổ não, nếu sanh trong loài người thọ mệnh rất ngắn. Nếu người trộm cắp thì sau sinh ra bần khốn, áo không kín thân, thức ăn không đủ.
Vì sao thế?
Ðều do lấy tài vật của người khác, nên bị sự thay đổi như thế, hoặc sanh làm người, chịu khổ vô lượng. Nếu người tà dâm vợ người thì sau sanh làm người, vợ không trinh lương.
Nếu người vọng ngữ thì sau sanh làm người lời nói không đủ tin, bị người khinh mạn. Đó là do đời trước nói dối trá hư ngụy.
Nếu người nói lời ác thì sẽ chịu tội báo ở địa ngục, hoặc sanh loài người nhan sắc xấu tệ. Đó là do đời trước nói lời ác nên chịu báo ấy.
Nếu người ỷ ngữ chịu tội báo địa ngục, nếu sanh cõi người trong gia đình không hòa, thường bị gây gổ.
Vì sao thế?
Do đời trước tạo ra báo ấy. Nếu người nói hai lưỡi gây rối đôi bên thì sẽ chịu tội địa ngục, hoặc sanh cõi người gia đình bất hòa thường có tranh tụng.
Vì sao thế?
Do đời trước gây chia rẽ đôi bên mà ra. Nếu người ưa tật đố thì sẽ chịu tội địa ngục, nếu sanh cõi người thì bị người ghét. Đó là việc làm đời trước mà bị như thế. Nếu người sanh tâm mưu hại thì sẽ chịu tội địa ngục, nếu sanh làm người ý không chuyên định.
Vì sao thế?
Ðó là do đời trước khởi tâm như thế. Nếu người tập tà kiến thì sẽ chịu tội địa ngục, nếu sanh làm người thì bị đui, điếc, câm ngọng, người không ưa thấy. Nguyên do này đều nhân việc làm đời trước mà ra.
Thế nên, này Ðại Vương! Do mười ác báo này gây nên ương lụy, chịu khổ vô lượng, huống lại ngoài những điều này. Cho nên Ðại Vương, nên dùng pháp cai trị chớ dùng phi pháp, dùng lý trị dân chớ dùng phi lý.
Ðại Vương! Các bậc dùng chánh pháp trị dân, sau khi mệnh chung đều sanh lên Trời. Giả sử Ðại Vương sau khi mệnh chung, nhân dân nghĩ nhớ, trọn không quên, danh tiếng vang xa.
Ðại Vương nên biết, những người dùng phi pháp trị dân, sau khi chết đều sanh địa ngục, khi ấy ngục tốt trói thân thể, ở trong đó chịu khổ không thể tính kể.
Hoặc bị đánh, hoặc bị trói, hoặc bị giã nát, hoặc bị cắt xẻo từng phần, hoặc bị lấy lửa đốt, hoặc bị rót nước đồng sôi vào mình, hoặc bị lột da, hoặc bị mổ bụng, hoặc bị rút lưỡi, hoặc bị móc mắt, hoặc bị chọc thủng tai, bị cắt đứt tay chân, tai, mũi, đã đứt rồi sanh lại.
Hoặc ném thân hình vào trong chảo lớn, bị dùng chìa sắt xóc vào thân không ngừng. Hoặc từ chảo ra, vị rút sống lưng làm roi đánh xe. Hoặc bắt vào trong địa ngục lửa nóng, hoặc vào địa ngục phẩn nóng, lại vào địa ngục đâm chém, lại vào địa ngục tro than, lại vào địa ngục cây dao, lại bị bắt nằm ngửa lấy hoàn sắt nóng bắt ăn, ruột gan ngũ tạng thảy đều cháy tiêu, hoàn sắt rơi xuống.
Lại bị đem nước đồng rót vào miệng tuột từ trên xuống, trong ấy chịu khổ, hết tội sau mới được ra. Như thế, Ðại Vương, chúng sanh vào địa ngục việc ấy như thế, đều do đời trước cai trị bất chánh mà ra.
Thế Tôn liền nói kệ:
Trăm năm làm phóng dật,
Nên sau vào địa ngục,
Phóng túng tham nào đủ,
Chịu tội không tính kể.
Ðại Vương! Dùng pháp cai trị tự cứu thân mình, cha mẹ, vợ con, nô tỳ, thân tộc cùng giúp việc nước. Cho nên, Ðại Vương, thường nên dùng pháp cai trị chớ dùng phi pháp. Mạng người rất ngắn, ở đời chỉ chốc lát, sanh tử dài xa rất nhiều nạn đáng sợ.
Khi chết tới, kêu thóc, gân cốt phân tán, thân thể đau đớn. Bấy giờ không ai cứu, chẳng phải cha mẹ, vợ con, nô tỳ, hầu cận, Quốc Độ, nhân dân có thể cứu hộ.
Có những nạn này ai có thể thay thế?
Chỉ có bố thí, trì giới, lời nói thường hòa vui, không tổn thương người, làm các công đức, làm các cội lành.
Thế Tôn liền nói kệ:
Người trí thường bố thí,
Ðiều Chư Phật khen ngợi,
Cho nên tâm thanh tịnh,
Chớ có ý giải đãi.
Bị chết làm bức ngặt,
Chịu khổ não rất lớn,
Vào con đường ác thú,
Không có lúc ngừng nghỉ.
Nếu khi tham dục đến,
Chịu khổ não rất nhiều,
Các căn tự nhiên hoại,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu khi thầy thuốc đến,
Gom góp các cỏ thuốc,
Không đủ thấm khắp thân,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu thân tộc lại đến,
Hỏi thăm việc tiền của,
Tai cũng chẳng nghe tiếng,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu lại dời đổi đất,
Bệnh nhân nằm trên ấy,
Thân như gốc cây khô,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu lại đã mệnh chung,
Thân mạng thức đã lìa,
Thân như đất tường vách,
Do ác không ngừng nghỉ.
Nếu lại tử thi ấy,
Thân quyến đưa ra mộ,
Cũng chẳng thể níu kéo,
Chỉ phước có thể cậy.
Cho nên, Ðại Vương nên tìm phương tiện làm việc phước nghiệp, đời nay không làm, sau hối vô ích.
Thế Tôn liền nói kệ:
Như Lai do phước lực,
Hàng phục quyến thuộc ma,
Nay đã được Phật lực.
Phàm người làm phước nghiệp,
Thường được lìa khổ hoạn,
Làm phước được phước báo,
Ðời này và đời sau.
Cho nên, Ðại Vương, nên nghĩ nhớ làm việc phước, làm ác đã hối hận, chớ phạm lại.
Thế Tôn liền nói kệ:
Tuy làm ác tột cùng,
Hối quá dần mỏng nhẹ,
Bấy giờ ở thế gian,
Cội gốc đều tiêu diệt.
Cho nên, Ðại Vương, đừng vì thân mình làm các việc ác. Chớ vì cha mẹ, vợ con, Sa Môn, Bà La Môn mà làm việc ác tập theo hạnh ác. Như thế, Ðại Vương, nên học điều này.
Thế Tôn liền nói kệ:
Chẳng cha mẹ anh em,
Cũng chẳng phải thân tộc,
Hay miễn điều ác này,
Ðều bỏ, trở về chết.
Cho nên, Ðại Vương, từ nay về sau dùng pháp trị dân, chớ dùng phi pháp. Như thế, Ðại Vương, nên học điều này. Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Tôi nghe như vậy!
Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc đêm nằm mộng thấy mười việc, Vua liền tỉnh giấc rất lo sợ, e sợ mất nước, thân mình và vợ con.
Sáng mai Vua liền triệu tập các công khanh Đại Thần, các Bà La Môn Đạo Sĩ sáng suốt có thể giải điềm mộng, thảy đều câu hội. Vua liền đem mười điều mộng trong đêm nói lại, hỏi ai có thể giải được.
Bà La Môn thưa: Hạ thần có thể giải được, chỉ sợ Vua nghe rồi sẽ không vui.
Vua bảo: Cứ nói.
Bà La Môn tâu: Vua sẽ mất nước, mất Thái Tử và Hoàng Hậu.
Vua hỏi: Này các khanh, có thể tế lễ cầu giải trừ chăng?
Bà La Môn tâu: Việc ấy có thể tế lễ được. Phải giết Thái Tử và vị đại phu nhân Vua yêu quý nhất, những kẻ hầu cận, thị tùng, nô bộc và Đại Thần quý nhất để dâng tế Thiên Vương. Có bao nhiêu bảo vật trân kỳ quý báu đều phải đốt hết để tế Trời.
Như thế Vua và nước có thể hết nạn không lo. Vua nghe lời Bà La Môn tâu, rất lo buồn không vui, đi về phòng riêng suy nghĩ việc này.
Phu Nhân Vua tên Mạt Lợi, đến chỗ Vua hỏi thăm:
Vua vì sao lo buồn không vui?
Thần thiếp có lỗi gì với bệ hạ chăng?
Vua đáp: Khanh không có lỗi với ta, nhưng đừng hỏi điều này, Khanh có nghe sẽ lo sợ.
Phu Nhân đáp: Chẳng lo sợ.
Vua bảo: Ðừng hỏi, nghe rồi lo sợ.
Phu Nhân nói: Thiếp là người bên cạnh Ðại Vương, có việc gì gấp nên bảo cho thiếp biết rồi sẽ giết một mình thiếp, Vua an ổn không có gì lo sợ, xin Ðại Vương nói.
Vua liền đem điềm mộng đêm qua nói với phu nhân, thấy mười việc: Một, thấy ba cái vạc, hai vạc bên đầy, vạc ở giữa trống, hai vạc bên hơi nước sôi giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa.
Hai, thấy con ngựa miệng ăn mà hậu môn cũng ăn.
Ba, mộng thấy cây lớn trổ bông.
Bốn, mộng thấy cây nhỏ ra trái.
Năm, mộng thấy người cầm dây, đằng sau có con dê, chủ dê ăn sợi dây.
Sáu, thấy con chồn ngồi trên ghế vàng ăn bát vàng.
Bảy, thấy trâu già lại bú nghé con.
Tám, mộng thấy bầy trâu đen, từ bốn phía kêu rống chạy đến muốn đánh nhau, đang họp chưa họp, không biết chỗ trâu.
Chín, mộng thấy một ao nước lớn, ở giữa đục bốn bên trong.
Mười, mộng thấy khe suối lớn nước dậy sóng màu đỏ.
Mộng rồi tỉnh dậy rất sợ hãi, e sợ mất nước và thân mình, thê tử và nhân dân. Nay triệu tập hàng công khanh Đại Thần, Đạo Sĩ Bà La Môn có thể giải mộng.
Thời có một Bà La Môn nói rằng: Phải giết Thái Tử của Vua, giết phu nhân quý trọng, và Đại Thần, tôi tớ để tế Trời. Do đó nên lo buồn.
Phu Nhân thưa: Ðại Vương chớ lo việc mộng. Như người mua vàng, lấy lửa đốt thử và mài vào đá, xấu tốt tự hiện. Nay Đức Thế Tôn ở gần, tại Tinh Xá Kỳ Hoàn, có thể đến đó hỏi Phật. Phật giải thích, nên nghe lời Phật dạy.
Tại sao nghe lời Bà La Môn cuồng si ấy, mà tự lo khổ đến như vậy?
Vua bèn vui vẻ tỉnh ngộ, liền triệu tập quần thần tả hữu, gấp rút chuẩn bị xa giá. Vua ngự trên xe che lọng cao, thị tùng cưỡi ngựa theo có ngàn vạn người, ra khỏi thành Xá Vệ, đến Tinh Xá Kỳ Hoàn.
Ðến nơi Vua đi bộ đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, quý gối chấp tay bạch Phật: Ðêm qua con mộng thấy mười việc, xin Đức Thế Tôn thương xót con, vì con giải nói từng việc.
Phật bảo: Lành thay, Ðại Vương!
Ðiềm mộng của Nhà Vua sẽ ứng cho đời tương lai sau này. Ðời sau nhân dân không sợ phép cấm, sẽ làm nhiều việc dâm thất tham đắm vợ con, buông lung việc dâm không chán đủ, đố kỵ ngu si không biết hổ thẹn, bỏ điều trinh khiết, siềm ngụy loạn quốc.
Vua mộng thấy ba cái vạc, vạc hai bên đầy, vạc chính giữa trống, hai vạc bên hơi nước sôi bốc lên giao nhau, không bay vào vạc trống ở giữa.
Ðó là đời sau nhân dân không cấp dưỡng thân thuộc, nghèo cùng, không gần gũi bà con mà kết bạn với người dưng phú quý cùng qua lại biếu tặng. Vua thấy mộng thứ nhất, chính là đây vậy.
Thấy ngựa, miệng ăn và hậu môn cũng ăn, là đời sau nhân dân Đại Thần bá quan, sứ giả công khanh, ăn lộc Vua lại ăn của dân, giặc giã không ngừng, kẻ sứ làm kẻ gian, dân mất an ninh không ở quê nhà. Vua mộng điều thứ hai, chính là đây vậy.
Vua thấy cây lớn trổ hoa, là đời sau nhân dân phần nhiều bị xua đuổi, tâm phiền ý não thường lo sợ, tuổi mới ba mươi đầu bạc. Vua mộng thấy việc thứ ba, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy cây nhỏ trổ trái, đời sau, người nữ chưa đến mười lăm tuổi có chồng, ẵm con trở về không biết hổ thẹn. Vua mộng thấy việc thứ tư, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy người cầm dây, sau đó có con dê, người chủ dê ăn sợi dây, là đời sau, người chồng đi buôn bán hoặc vào quân đội, dạo chơi các nơi kết bạn giao du, không biết đến vợ nhà tư thông với nam tử, ngủ nghỉ ăn uống trên tài sản của chồng, buông lung tình ý không biết hổ thẹn. Người chồng cũng biết, bắt chước bạn ngủ. Vua mộng thấy việc thứ năm, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy chồn ngồi trên ghế vàng, ăn dùng bát vàng, là đời sau kẻ hạ tiện sẽ được quý trọng, ngồi ghế vàng ăn thức ăn ngon, hàng quý tộc danh giá sẽ là tôi tớ, ông chủ làm nô tỳ, nô tỳ làm chủ nhân. Vua mộng thấy điều thứ sau, chính là đây vậy.
Vua thấy trâu già lại bú nghé con, người đời sau, mẹ sẽ vì con gái làm mai mối, đem người nam vào phòng, mẹ đứng canh cửa, do đó được tài vật dùng tự sinh sống, cha cũng đồng tình ngu ngơ không biết. Vua mộng thấy điều thứ bảy, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy bầy trâu đen từ bốn phía kéo đến, cùng kêu rống muốn đánh nhau, đang hợp mà không thấy chỗ trâu, đời sau, Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả, nhân dân đều không sợ pháp luật, tham dâm dục, tích chứa tài sản, vợ con lớn nhỏ đều không liêm khiết.
Dâm thất, tham ăn uống không chán, tật đố ngu si không xấu hổ, không làm người trung hiếu, siểm khúc hại nước, không sợ trên dưới, mưa không đúng thời, khí không điều hòa, gió bụi nổi dậy, cát bay gãy đổ cây cối, sâu rầy ăn lúa khiến bông không chín.
Vua chúa nhân dân đều làm như thế, nên Trời khiến như vậy, lại bốn bên kéo mây, Vua và nhân dân đều mừng bảo rằng: Mây che bốn phía, nay chắc sẽ mưa. Trong chốc lát mây tự tan, nên hiện điềm gỡ, muốn cho dân chúng sửa đổi hành vi, giữ việc lành, trì giới, kinh sợ Trời Đất không vào đường ác, tự giữ trinh lương một chồng một vợ, tâm lành không sân. Vua mộng điều thứ tám, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy ao nước lớn, chính giữa đục bốn bên trong, đời sau nhân dân trong Diêm Phù Đề, thần trong không trung, con không hiếu, không kính trọng người già, không tin Phật Đạo, không kính bậc Ðạo Sĩ thông suốt Kinh Điển, kẻ bề tôi tham của Vua ban, con tham tài vật của cha, không biết ơn nghĩa, không đoái hoài nghĩa lý.
Cõi biên giới thì trung hiếu tôn kính người già, ưa tin Phật đạo, cấp dưỡng cho bậc Đạo Sĩ thông Kinh, nhớ nghĩ đền ơn. Vua mộng thấy điềm thứ chín, chính là đây vậy.
Vua mộng thấy nước khe lớn dậy sóng màu đỏ, là đời sau, các Vua chúa không chán có thêm nhiều nước, khởi binh cùng đánh nhau, sẽ làm các thứ chiến xa, binh mã cùng công phạt nhau, giết hại nhau, máu chảy đỏ tràn. Vua mộng thấy điều thứ mười, chính là đây.
Thảy đều là việc của người đời sau. Người đời sau nếu ai để tâm vào Phật Đạo, phụng sự bậc đạo nhân thông suốt Kinh, khi chết đều sanh lên Trời. Nếu làm hạnh ngu si, lại tàn hại nhau thì chết rồi sanh vào trong ba đường ác không thể kể hết.
Vua liền quỳ gối chấp tay nghe lời Phật dạy, trong tâm vui vẻ, được định tuệ, không còn sợ hãi. Vua lạy Phật rồi trở về cung, trọng thưởng cho phu nhân và phong làm chánh hậu, cấp cho nhiều tài bảo để bố thí cho người, khiến trong nước giàu vui.
Vua lấy hết bổng lộc của công khanh, Đại Thần, Bà La Môn, đuổi ta khỏi nước không còn tin dùng. Tất cả nhân dân đều phát tâm vô thượng chánh chân. Vua và phu nhân lễ Phật mà đi. Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Bốn Mươi - Phần Một
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Ba Mươi Mốt - Trí
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Năm - Phẩm Song - Kinh đại Không
Phật Thuyết Kinh Trưởng Giả Pháp Chí Thế
Phật Thuyết Kinh Phổ Môn Phẩm - Phần Một