Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Bảy - Phẩm Bảy Bài Kệ - Chuyện Người Chăn Dê Dhùmakàri Tiền Thân Dhùmakàri
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG BẢY
PHẨM BẢY BÀI KỆ
CHUYỆN NGƯỜI CHĂN DÊ DHÙMAKÀRI
TIỀN THÂN DHÙMAKÀRI
Một hôm minh đế Yu dhi la. Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về đặc ân của Ðại Vương Kosala đối với một người khách lạ.
Chuyện kể rằng có thời Vua không dành đặc ân cho các võ tướng cũ vẫn đến chầu Vua như thường lệ, mà lại ban vinh dự và tỏ lòng hiếu khách đối với những người mới yết kiến lần đầu. Thời ấy Vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên địa bị quấy phá.
Nhưng các võ tướng cũ của Vua không muốn giao chiến vì nghĩ rằng những võ tướng mới được hưởng đặc ân sẽ chiến đấu và đám người mới này cũng không muốn chiến đấu vì nghĩ rằng những vị tướng cũ sẽ làm việc ấy. Do vậy quân phiến loạn thắng trận.
Vua biết thất bại của mình là do sai lầm mình đã mắc phải khi ban ân huệ cho bọn người mới, liền trở về thành Xá Vệ. Vua quyết định hỏi Đức Thế Tôn Ðại Trí xem mình có phải là ông Vua duy nhất chịu thất bại vì lý do kia chăng.
Bậc Ðạo Sư đáp: Thưa Ðại Vương, Ðại Vương không phải là trường hợp duy nhất, Vua chúa ngày xưa cũng bị bại trận vì đã ban đặc ân cho đám người mới. Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ. Ngày xưa tại thành Indapattana, ở Quốc Độ Kuru, có vị Vua ngự trị mệnh danh là Dhananjaya, thuộc dòng họ Yudhithila. Bồ Tát được sinh vào gia đình vị Tế Sư của Vua.
Khi lớn lên, Ngài học tập mọi nghệ thuật ở Takkasilà. Sau Ngài trở về Indapattana và khi thân phụ từ trần, Ngài trở thành vị Tế Sư Hoàng Gia kiêm cố vấn của Vua về thế sự cũng như Thánh sự. Danh Hiệu của Ngài là bậc trí nhân Vidhùra.
Vua Dhananjaya coi thường các võ tướng cũ của mình và ban đặc ân cho các người mới. Sau đó Vua đi chinh chiến ở một tỉnh biên thùy có loạn. Nhưng cả đám võ tướng cũ lẫn võ tướng mới đều không muốn giao chiến, mỗi phe đều nghĩ rằng phe kia sẽ chăm lo việc ấy. Do đó Vua bại trận.
Khi trở về Indàpattana, Vua nhận xét rằng sự thất bại ấy là do đặc ân mà mình đã dành cho đám người mới.
Một hôm Vua suy nghĩ: Có phải ta là vị Vua duy nhất từng bại trận vì ban ân huệ cho đám người mới, hay cũng có nhiều kẻ khác cùng chung số phận này trước kia?
Ta muốn hỏi bậc trí nhân Vidhùra. Vì thế Vua đưa lời chất vấn trí nhân Vidhùra khi Ngài đến yết kiến Vua tại Triều Đình.
Bậc Ðạo Sư ngâm kệ nêu rõ lý do lới chất vấn của Vua:
Một hôm minh đế Yu dhi la,
Hỏi bậc trí nhân Vi dhù ra:
Hiền hữu Bà La Môn có biết
Tim ai sầu thống thiết hơn ta?
Nghe vậy, Bồ Tát đáp: Tâu Ðại Vương, nỗi sầu của Ngài chỉ là điều nhỏ nhặt. Ngày xưa, một Bà La Môn chăn dê tên gọi Dhùmakàri nuôi một đàn dê lớn, và làm chuồng cho chúng ở trong rừng.
Vị ấy đốt lửa xông khói và sống bằng sữa dê tại đó để chăm sóc đàn dê. Khi thấy một bầy nai da vàng óng ả chợt đến, ông lại sinh lòng thương mến chúng và xao lãng bầy dê, ông tỏ hết lòng quý trọng bầy nai. Vào mùa thu, bầy nai lại di chuyển về vùng Tuyết Sơn.
Trong lúc bầy dê chết dần như thế, bầy nai cũng khuất dạng sau rặng núi. Do quá khổ não, ông mắc bệnh xanh xao võ vàng và từ trần. Ông đã bày tỏ đặc ân với đám nai mới và phải chết vì chịu buồn khổ thống thiết hơn Ðại Vương cả trăm ngàn lần.
Ngài liền ngâm vần kệ nêu rõ trường hợp này:
Bà La Môn có một bầy dê,
Dòng họ Va si sang trọng kia,
Ðốt lửa ngày đêm luôn bốc khói,
Sống đời an lạc chốn sơn khê.
Ngửi mùi khói bốc, một bầy nai
Do bị nhặng đeo quấy rối hoài,
Tìm chỗ trú khi mưa gió đến,
Gần nhà mục tử Dhu ma kai.
Bầy nai giờ được mọi yêu thương,
Dê chẳng được ai thiết ngó ngàng,
Ði lại tự do không bảo hộ,
Cho nên chúng phải bị suy tàn.
Song nay nhặng đã bỏ khu rừng,
Thu đến, mùa mưa chấm dứt luôn,
Nai phải đi tìm bao đỉnh núi,
Cùng khe suối chảy ở trên nguồn.
Mục tử thấy nai đã bỏ đi,
Cả bầy dê cũng chết nằm kia,
Bệnh sầu não đến làm mòn mỏi
Da dẻ ngày thêm một tái tê.
Vậy người nào bỏ mặc thân bằng,
Lại gọi người xa lạ thân thiết
Như Lão Dhumakai mục tử,
Một mình, dòng lệ đắng cay tuôn.
Ðấy là câu chuyện do bậc Ðại Sĩ kể lại để an ủi Vua. Vua được an ủi, lòng rất hoan hỷ liền ban tặng Ngài nhiều châu báu. Từ đó trở đi, Vua bày tỏ ân sủng đối với toàn dân, làm nhiều thiện sự công đức nên được sinh lên Cõi Thiên.
Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân: Thời ấy, Vua xứ Kuru là Ànanda, Bà La Môn Dhùmakàri là Vua Pasenadi Ba Tư Nặc, nước Kosala, và bậc trí nhân Vidhùra là ta.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Tiểu Kinh Khổ Uẩn
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Chín - Chín Pháp - Phẩm Bốn - ðại Phẩm - Phần Bốn - Thiền
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Ba - Ba Pháp - Phẩm Mười Bốn - Phẩm Kẻ Chiến Sĩ - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Hai Mươi - Phẩm đà Lân Ni