Phật Thuyết Kinh Tối Thượng Bí Mật Na Nõa Thiên - Phần Bảy - Tối Thượng Thành Tựu ấn Tướng đại Minh

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Hiền, Đời Tống

PHẬT THUYẾT KINH

TỐI THƯỢNG BÍ MẬT NA NÕA THIÊN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Hiền, Đời Tống  

PHẦN BẢY

TỐI THƯỢNG THÀNH TỰU

ẤN TƯỚNG ĐẠI MINH  

Bấy giờ, Na Nõa Thiên lại nói Pháp Ấn Tướng.

Ấn tướng này là Pháp thành tựu tối thượng. Hành Nhân muốn làm Pháp Kết Ấn, trước tiên hai tay cần phải thanh tịnh sạch sẽ, lại dùng hương xoa hai bàn tay xong, mới có thể kết Ấn.

Na Nõa Thiên Căn Bản Ấn.Hai tay chắp lại, ngón giữa dựng song song, ngón út cũng vậy, ngón cái như móc câu, lại co ngón giữa như cái vòng, ngón trỏ cũng như vậy.

Ấn nầy có oai đức lớn, khéo làm tất cả việc. Cho đến khiến các lọai cử động, nói các việc với điều phục hàng Dạ Xoa, La Sát. Cũng có thể làm câu triệu. Việc của nhóm như vậy đều được thành tựu, cũng hay thành tựu hết thảy pháp.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là: Úm, đốt trí đốt trí, cô bát ra, toa hạ.

Oṃ Tuṭi tuṭi, kūbara svāhā.

Mẫu Nại Nga Ra Ấn. Lại như Ấn trước, co đầu ngón cái lại, ngón giữa như Kim Cang, an ở trên đảnh.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:

1. Úm, tức trí tức trí.

2. Tức tức trí.

3. Mẫu nại nga ra, hồng.

Oṃ Ceṭi ceṭi, ceceṭi, mudgara hūṃ Ấn với Đại Minh này hay thành tất cả việc.

Na Nõa Thiên Tâm Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, hai tay như Kim Cang, co ngón trỏ như mặt trăng.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:

Úm, đốt rô trí, đốt rô trí, toa hạ.

Oṃ Dhruṭi dhrūṭi svāhā.

Ấn với Đại Minh này hay điều phục tất cả Dạ Xoa, La Sát, các Rồng cho đến các nhóm ác.

Chư Thiên Tâm Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, co hai ngón trỏ, dựng thẳng hai ngón cái thành Ấn.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:

1. Úm, na nõa lị ni.

2. Nễ phạ nhạ dã, hồng, phát tra.

Oṃ Naḍariṇi dava jaya hūṃ phaṭ.

Ấn với Đại Minh này hay làm hết thảy Pháp thành tựu. 

Nhất Thiết Dạ Xoa La Sát Tâm Ấn.

Để hai lòng bàn tay ngang bằng nhau, ngón trỏ, ngón giữa, ngón cái cột dính nhau, thành Ấn Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:

1. Úm na mô tốt đổ đế, bộ đế thuyết ra dã.

2. Na nõa cô bát ra tả, nỗ ma đổ.

3. Ma hạ nghiệt na địa bát để nẵng.

4. Phệ thiết ra phạ noản tô đa.

5. Hồng, tức trí, toa hạ.

Oṃ namostute bhūtaśvarāya naḍa kūbarāya, anu mato mahā gaṇaadhipatena vaiśravaṇa sutāya hūṃ ceṭi svāhā.

Ấn với Đại Minh này khéo điều các Diệu sao với tất cả hàng Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa… Lúc kết Ấn và tụng Đại Minh này thời hàng Dạ Xoa v.v... thảy đều tiêu tán, nếu không thì cái đầu sẽ bị bể làm bảy phần.

Chư Thiên Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, mở hai ngón trỏ, duỗi hai ngón út.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:

1. Úm, bát ra ma ngu hê dã cát.

2. Nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, hồng.

Oṃ Parama guhyasya, jvala jvala prajvala, hūṃ Ấn và Đại Minh này cũng hay làm tất cả pháp thành tựu.

Na Nõa Thiên Tâm Ấn. Chẳng sửa Ấn trước, hai ngón trỏ như cái vòng, hai ngón giữa như móc câu, tách mở hai ngón út thì thành Ấn.

Lúc kết Ấn này thời tụng Đại Minh là:

1. Úm, hiệt ra hiệt ra.

2. Bát ra hiệt ra, toa hạ.

Oṃ Hara hara prahara svāhā.

Khi Na Nõa Thiên nói Ấn Minh đó xong, lại nói: Nếu có hành nhân làmcác pháp thành tựu, cần phải thường hành ba Mật, tức là Tam Muội, Ấn Tướng, Đại Minh… thì có thể y theo pháp làm các việc thành tựu, chỗ làm đều thành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần