Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Sư Tử Hống - Phần Bảy - Khổ Hạnh Của Bồ Tát

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TRUNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

ÐẠI KINH SƯ TỬ HỐNG PHẦN BẢY

KHỔ HẠNH CỦA BỒ TÁT  

Này Sariputta, ta thắng tri phạm hạnh, đầy đủ bốn hạnh: Về khổ hạnh, ta khổ hạnh đệ nhất. Về bần uế, ta bần uế đệ nhất. Về yểm ly, ta yểm ly đệ nhất. Về độc cư, ta độc cư đệ nhất.

Này Sariputta, ở đây, khổ hạnh của ta như sau: Ta sống lõa thể, phóng túng, không theo khuôn phép, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy.

Không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men.

Ta chỉ nhận đồ ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay chỉ nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay chỉ nhận ăn tại bảy nhà, chỉ nhận ăn bảy miếng. ta nuôi sống chỉ với một chén, nuôi sống chỉ với hai chén, nuôi sống chỉ với bảy chén.

Ta chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy ta sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.

Ta chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải nivara, ăn da vụn, ăn trấu, uống nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ, ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.

Ta mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc áo phấn tảo y, mặc vỏ cây tititaka làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cú.

Ta sống nhổ râu tóc, ta theo tập tục sống nhổ râu tóc, ta theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, ta là người ngồi chõ hỏ, sống tinh tấn theo hạnh ngồi chõ hỏ.

Ta dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên hông, sống để bụi và nhớp che dính thân mình, sống và ngủ ngoài Trời, theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, sống không uống nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm.

Như vậy ta sống theo hạnh hành hạ, dày vò thân thể theo nhiều cách. Này Sariputta, như vậy là khổ hạnh của ta.

Này Sariputta, ở đây hạnh bần uế của ta như sau: Trên thân ta, bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng.

Như gốc cây tinduka bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng. Cũng vậy, này Sariputta, trên thân ta bụi bặm chất đầy trải nhiều năm tháng, đóng thành tấm, thành miếng.

Này Sariputta, ta không nghĩ rằng: Với tay của ta, ta hãy phủi sạch bụi bặm này đi, hay những người khác với tay của họ hãy phủi sạch bụi bặm này đi cho ta.

Này Sariputta, ta không có nghĩ như vậy.

Này Sariputta, như vậy là sự bần uế của ta.

Này Sariputta, như thế này là sự yểm ly của ta.

Này Sariputta, tỉnh giác, ta đi tới.

Tỉnh giác ta đi lui, ta an trú lòng từ cho đến trong một giọt nước với tâm tư: Mong rằng ta không làm hại một chúng sanh nhỏ nào trong những ác đạo của họ!

Này Sariputta, như vậy là sự yểm ly của ta.

Này Sariputta, như thế này là sự độc cư của ta. Này Sariputta, ta đi sâu vào một khu rừng và an trú tại chỗ ấy.

Khi ta thấy người chăn bò, người mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi hay người thợ rừng, ta liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác.

Vì sao vậy?

Ta nghĩ rằng: Mong họ đừng thấy ta, và mong ta đừng thấy họ!

Này Sariputta, giống như một con thú rừng thấy người liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác.

Cũng vậy, này Sariputta, khi ta thấy người chăn bò, người mục súc, người cắt cỏ, người đốn củi, hay người tiều phu, ta liền chạy từ rừng này qua rừng khác, từ lùm cây này qua lùm cây khác, từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ đồi cao này qua đồi cao khác.

Vì sao vậy?

Ta nghĩ rằng: Mong họ đừng thấy ta, và mong ta đừng thấy họ!

Này Sariputta, như vậy là hạnh độc cư của ta.

Này Sariputta, rồi ta bò bốn chân đến các chuồng bò, khi các con bò cái đã bỏ đi, khi các người chăn bò không có mặt, rồi ta ăn phân các con bò con, các con bò còn trẻ, các con bò còn bú. Khi nước tiểu và phân của ta còn tồn tại, ta tự nuôi sống với các loại ấy.

Này Sariputta, như vậy là hạnh đại bất tịnh thực của ta.

Này Sariputta, ta đi sâu vào một khu rừng rậm rạp kinh hoàng và an trú tại chỗ ấy.

Này Sariputta, tại khu rừng rậm rạp kinh hoàng này, những ai còn tham ái đi vào khu rừng rậm rạp ấy, thời lông tóc người ấy dựng ngược.

Này Sariputta, rồi ta trong những đêm đông lạnh lẽo, giữa những ngày mồng tám, khi có tuyết rơi, trong những đêm như vậy, ta sống giữa Trời, và ban ngày sống trong khu rừng rậm rạp. Ta sống trong những ngày cuối tháng hè, ban ngày thì sống giữa Trời, còn ban đêm trong khu rừng rậm rạp.

Rồi này Sariputta, những bài kệ kỳ diệu từ trước chưa từng được nghe sau đây được khởi lên:

Nay bị thiêu đốt, bị buốt lạnh,

Cô độc sống trong rừng kinh hoàng,

Trần truồng, ta ngồi không lửa ấm,

Ẩn sĩ, trong lý tưởng đăm chiêu.

Này Sariputta, ta nằm ngủ trong bãi tha ma, dựa trên một bộ xương.

Này Sariputta, những đứa mục đồng đến gần ta, khạc nhổ trên ta, tiểu tiện trên ta, rắc bụi trên ta và lấy que đâm vào lỗ tai.

Này Sariputta, và ta biết ta không khởi ác tâm đối với chúng. Này Sariputta, như vậy là hạnh trú xả của ta.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh đạt được nhờ món ăn.

Họ nói: Chúng ta sống nhờ trái táo, và họ ăn trái táo, họ ăn bột táo, họ uống nước trái táo dưới nhiều hình thức. Này Sariputta, ta tự xưng ta sống chỉ ăn một trái táo.

Này Sariputta, có thể các người nghĩ như sau: Trái táo thời ấy to lớn. Này Sariputta, chớ có hiểu như vậy. Vì trái táo thời ấy giống với trái táo hiện tại.

Này Sariputta, trong khi ta sống chỉ ăn một trái táo, thân thể của ta trở thành hết sức ốm yếu.

Vì ta ăn quá ít, tay chân ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo.

Vì ta ăn quá ít, bàn trôn của ta trở thành như móng chân con lạc đà.

Vì ta ăn quá ít, các xương sống phô bày của ta giống như một chuỗi banh.

Vì ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của ta giống như rui cột nhà sàn hư nát.

Vì ta ăn quá ít, nên con ngươi của ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu.

Vì ta ăn quá ít, da đầu ta trở thành nhăn nheo khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn.

Này Sariputta, nếu ta nghĩ: Ta hãy sờ da bụng, chính xương sống bị ta nắm lấy.

Nếu ta nghĩ: Ta hãy sờ xương sống, thì chính da bụng bị ta nắm lấy. Vì ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của ta bám chặt xương sống.

Này Sariputta, nếu ta nghĩ: Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện, thì ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì ta ăn quá ít.

Này Sariputta, nếu ta muốn thoa dịu thân ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Sariputta, trong khi ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân ta, vì ta ăn quá ít.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh đạt được nhờ món ăn.

Họ nói: Chúng ta sống nhờ đậu xanh, như trên, chúng ta sống nhờ vừng mè, như trên, chúng ta sống nhờ hột gạo, và họ ăn hột gạo, họ ăn hột gạo nghiền thành bột, họ uống nước gạo, và họ ăn hột gạo dưới nhiều hình thức.

Này Sariputta, ta tự xưng ta sống chỉ ăn một hột gạo.

Này Sariputta, có thể các Người nghĩ như sau: Hột gạo thời ấy to lớn. Này Sariputta, chớ có hiểu như vậy. Vì hột gạo thời ấy giống với hột gạo hiện tại.

Này Sariputta, trong khi ta chỉ sống ăn một hột gạo, thân thể của ta trở thành hết sức ốm yếu.

Vì ta ăn quá ít, tay chân ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo. Vì ta ăn quá ít, bàn trôn của ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì ta ăn quá ít, xương sống phô bày của ta giống như một chuỗi banh.

Vì ta ăn quá ít các xương sườn gầy mòn của ta giống như rui cột của một nhà sàn hư nát.

Vì ta ăn quá ít, con ngươi long lanh của ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu.

Vì ta ăn quá ít, da đầu ta trở thành nhăn nheo, khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nheo, khô cằn.

Này Sariputta, nếu ta nghĩ: Ta hãy sờ da bụng, thì chính xương sống bị ta nắm lấy.

Nếu ta nghĩ: Ta hãy rờ xương sống, thì chính da bụng bị ta nắm lấy. Vì ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da bụng của ta bám chặt xương sống.

Này Sariputta, nếu ta nghĩ: Ta đi đại tiện hay đi tiểu tiện, thì ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì ta ăn quá ít.

Này Sariputta, nếu ta muốn xoa dịu thân ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thời này Sariputta, trong khi ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân ta, vì ta ăn quá ít.

Này Sariputta, dầu ta có theo cử chỉ như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, ta cũng không chứng được các pháp Thượng Nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng Bậc Thánh.

Vì sao vậy?

Vì với những phương tiện ấy, không chứng được pháp Thượng Nhân với Thánh trí tuệ. Chính Thánh trí tuệ này chứng được thuộc về Bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ luân hồi.

Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự luân hồi mà xưa kia ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh Cư Thiên Suddhavasa.

Này Sariputta, nếu ta luân hồi tại Tịnh Cư Thiên thì ta đã không trở lại đời này nữa.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ sanh khởi.

Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự sanh khởi mà xưa kia ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh Cư Thiên.

Này Sariputta, nếu ta sanh khởi tại Tịnh Cư Thiên, thì ta đã không trở lại đời này nữa.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ an trú.

Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự an trú mà xưa kia ta không trải qua trong một thời gian khá dài, trừ phi với các vị Tịnh Cư Thiên.

Này Sariputta, nếu ta an trú tại Tịnh Cư Thiên, thì ta đã không trở lại đời này nữa.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ tế tự.

Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự tế tự mà xưa kia ta không làm trong một thời gian khá dài, khi ta là vị Vua Sát Đế Lị có làm lễ quán đảnh, hay làm vị Bà La Môn giàu có.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Sự thanh tịnh chứng đạt được nhờ thờ lửa.

Này Sariputta, thật không dễ gì tìm được sự thờ lửa mà xưa kia ta không làm trong một thời gian khá dài, khi ta là vị Vua Sát Đế Lỵ có làm lễ quán đảnh, hay làm vị Bà La Môn giàu có.

Này Sariputta, lại có một số Sa Môn, Bà La Môn có những chủ thuyết như sau, có những kiến giải như sau: Khi một thiếu niên còn trẻ tuổi, tóc đen nhánh, huyết khí sung mãn, trong tuổi thanh xuân, người ấy thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng.

Nhưng khi người ấy già cả, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi đến đoạn cuối cuộc đời, khi đã tám mươi, chín mươi hay một trăm tuổi, khi ấy trí tuệ biện tài tối thượng ấy bị đoạn trừ.

Này Sariputta, chớ có quan niệm như vậy.

Này Sariputta, nay ta đã già, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đi dến đoạn cuối cuộc đời, tuổi ta nay đã đến tám mươi.

Này Sariputta, ở đây ta có bốn vị đệ tử, tuổi thọ đến một trăm, đã sống một trăm tuổi, thành tựu chánh niệm đệ nhất, thành tựu chuyên tâm đệ nhất, thành tựu tinh cần đệ nhất và đầy đủ trí tuệ biện tài tối thượng.

Này Sariputta, ví như một người bắn cung thiện xảo, có huấn luyện, khéo tay, thuần thục, với một mũi tên nhẹ, có thể dễ dàng bắn ngang qua bóng một cây ta La.

Cũng vậy, những vị này với chánh niệm đệ nhất như vậy, được thành tựu trí tuệ biện tài tối thượng như vậy, nếu những vị này hỏi ta nhiều lần một câu hỏi về bốn niệm xứ, và nếu ta, được hỏi nhiều lần như vậy, phải giải thích cho họ hiểu và nếu họ được ta giải thích như vậy, có thể hiểu như đã giải thích, và nếu họ không hỏi ta về những vấn đề phụ thuộc và các vấn đề khác, trừ khi ăn, uống, nhai, nếm, trừ khi đi đại tiện, tiểu tiện, trừ khi ngủ để lấy lại sức.

Này Sariputta, dầu vậy, sự thuyết pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất, sự giải thích cú pháp của Như Lai cũng chưa hoàn tất, sự trả lời các câu hỏi của Như Lai cũng chưa hoàn tất, khi mà bốn đệ tử của ta, tuổi thọ đến một trăm tuổi, đã sống một trăm tuổi, đã từ trần sau một trăm tuổi.

Này Sariputta, nếu Ông có gánh ta trên giường đi chỗ này chỗ kia, thật sự trí tuệ biện tài của Như Lai không có gì thay đổi.

Này Sariputta, những ai nói một cách chân chánh sẽ nói như sau: Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và loài người.

Vị ấy sẽ nói về ta một cách chân chánh như sau: Một vị hữu tình không bị si chi phối, đã sanh ra ở đời vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư Thiên và loài người.

Lúc bấy giờ Tôn Giả Nagasamala đứng sau lưng Thế Tôn và quạt cho Ngài!

Tôn Giả Nagasamala bạch Thế Tôn:

Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!

Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn!

Sau khi nghe pháp môn này, lông tóc con dựng ngược.

Bạch Thế Tôn, pháp môn này tên gọi là gì?

Này Nagasamala, do vậy pháp môn này gọi là pháp môn lông tóc dựng ngược. Ông hãy như vậy thọ trì.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn Giả Nagasamala hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần