Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Thập Thượng - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẬT THUYẾT
KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Ðà Da Xá, Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
KINH THẬP THƯỢNG
PHẦN HAI
Thế nào là sáu tri pháp?
Đó là sáu xuất yếu giới.
Nếu có Tỳ Kheo nói như vậy: Tôi tu từ tâm, lại còn sanh sân nhuế.
Thì các Tỳ Kheo khác nói: Ngươi đừng nói như thế. Chớ hủy báng Như Lai. Như Lai không nói như thế, rằng muốn khiến tu từ giải thoát mà lại sanh sân nhuế, không có trường hợp đó. Phật nói, trừ sân nhuế rồi sau đó mới đắc từ.
Nếu có Tỳ Kheo nói:
Tôi thực hành bi giải thoát lại sanh tâm tật đố.
Hành hỷ giải thoát, sanh tâm ưu não.
Hành xả giải thoát, sanh tâm yêu ghét.
Hành vô ngã hành sanh tâm hồ nghi.
Hành vô tưởng hành, sanh các loạn tưởng, thì cũng giống như vậy.
Thế nào là sáu chứng pháp?
Đó là sáu thần thông:
Thần túc thông.
Thiên nhĩ thông.
Tri tha tâm thông.
Túc mạng thông.
Thiên nhãn thông.
Lậu tận thông.
Các Tỳ Kheo, đó là sáu mươi pháp, như thật không hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
Lại nữa, có bảy thành pháp, bảy tu pháp, bảy giác pháp, bảy diệt pháp, bảy thối pháp, bảy tăng pháp, bảy nan giải pháp, bảy sanh pháp, bảy tri pháp, bảy chứng pháp.
Thế nào là bảy thành pháp?
Đó là bảy tài sản: Tín là tài sản, giới là tài sản, tàm là tài sản, quý là tài sản, đa văn là tài sản, huệ thí là tài sản.
Thế nào là bảy tu pháp?
Đó là bảy giác ý: Ở đây, Tỳ Kheo tu niệm giác ý, y vô dục y tịch diệt, y viễn ly. Tu pháp, tu tinh tấn, tu hỷ, tu ỷ, tu định, tu xả, y vô dục, y tịch diệt, y viễn ly.
Thế nào là bảy giác pháp?
Đó là bảy trú xứ của thức:
Nếu có chúng sanh với nhiều tâm khác nhau, nhiều tưởng khác nhau, đó là Trời và người vậy. Đó là thức trú thứ nhất.
Lại có chúng sanh, với nhiều thân khác nhau nhưng một tưởng, đó là Trời Phạm Quang Âm lúc mới sanh đầu tiên. Đó là thức trú thứ hai.
Lại có chúng sanh với một thân nhưng nhiều tưởng khác nhau, đó là Trời Quang Âm. Đó là thức trú thứ ba.
Lại có chúng sanh với một thân và một tưởng giống nhau, đó là Trời Biến Tịnh. Đó là thức trú thứ tư.
Lại có chúng sanh trú Hư Không xứ. Đó là thức trú thứ năm.
Lại có chúng sanh trú ở thức xứ. Đó là thức trú thứ sáu.
Hoặc trú bất dụng xứ. Đó là thức trú thứ bảy.
Thế nào là bảy diệt pháp?
Đó là sáu sử: Sai sử bởi dục ái, sai sử bởi hữu ái, sai sử bởi kiến, sai sử bởi mạn, sai sử bởi sân nhuế, sai sử bởi vô minh, sai sử bởi nghi.
Thế nào là bảy thối pháp?
Đó là bảy phi pháp: Ở đây, Tỳ Kheo không có tín, không có tàm, không có quý, ít học, biếng nhác, hay quên, vô trí.
Thế nào là bảy tăng pháp?
Đó là bảy Chánh Pháp: Ở đây Tỳ Kheo có tín, có tàm, có quý, đa văn, không biếng nhác, nhớ dai, có trí.
Thế nào là bảy nan giải pháp?
Đó là bảy chánh thiện pháp: Ở đây, Tỳ Kheo ưa nghĩa, ưa pháp, ưa biết thời, ưa biết đủ, ưa tự nhiếp, ưa tập chúng, ưa phân biệt người.
Thế nào là bảy sanh pháp?
Đó là bảy tưởng: Tưởng về sự bất tịnh của thân, tưởng về sự bất tịnh của thức ăn, tưởng về sự hết thảy thế gian không đáng ưa thích, tưởng về sự chết, tưởng về vô thường, tưởng vô thường là khổ, tưởng khổ là vô ngã.
Thế nào là bảy tri pháp?
Đó là bảy sự tinh cần: Tinh cần nơi giới, tinh cần diệt tham dục, tinh cần phá tà kiến, tinh cần nơi đa văn, tinh cần nơi tinh tấn, tinh cần nơi chánh niệm, tinh cần nơi thiền định.
Thế nào là bảy chứng pháp?
Đó là bảy năng lực diệt tận lậu hoặc: Ở đây, Tỳ Kheo dứt tận lậu đối với hết thảy sự tập khởi của khổ, sự diệt trừ, vị ngọt, sự tai hại và sự xuất ly mà biết như thật, thấy như thật. Quán sát dục như hầm lửa và cũng như đao kiếm, biết dục, thấy dục, không tham nơi dục, tâm không trụ nơi dục.
Tỳ Kheo lậu tận, quán sát thuận và nghịch, sau khi đã như thật giác tri, như thật thấy.
Tham, tật, ác bất thiện pháp của thế gian, không rò rỉ, không sinh khởi.
Tu tứ niệm xứ, tu tập nhiều lần, thực hành nhiều lần.
Tu Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Ý, tám hiền Thánh đạo, tu tập nhiều lần.
Các Tỳ Kheo, đó là bảy mươi pháp như thật không hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
Lại nữa, có tám thành pháp, tám tu pháp, tám giác pháp, tám diệt pháp, tám thối pháp, tám tăng pháp, tám nan giải pháp, tám sánh pháp, tám trị pháp, tám chứng pháp.
Thế nào là tám thành pháp?
Đó lá tám nhân duyên khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh nhưng có thể sở đắc trí và nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tăng trưởng.
Những gì là tám?
Ở đây, Tỳ Kheo sống nương tựa Thế Tôn, hoặc nương tựa Sư Trưởng, hoặc nương tựa người phạm hạnh có trí tuệ, sanh tâm tàm quý, có ái, có kính. Đó là nhân duyên thứ nhất, chưa chứng đắc phạm hạnh nhưng chứng đắc trí, đã chứng đắc phạm hạnh thì trí tăng gia.
Lại nữa, sống nương tựa Thế Tôn, tùy thời mà thưa hỏi:
Pháp này có ý nghĩa gì?
Dẫn đến đâu?
Khi ấy các tôn trưởng liền mở bày cho nghĩa lý thậm thâm. Đó là nhân duyên thứ hai.
Sau khi nghe Pháp Thân tâm an lạc, an tĩnh. Đó là nhân duyên thứ ba.
Sau khi đã được an lạc, an tĩnh, sẽ không luận bàn những tạp luận làm chướng ngại đạo. Vị ấy đến giữa đại chúng hoặc tự mình thuyết pháp, hoặc thỉnh người khác thuyết, mà vẫn không bỏ sự im lặng của Hiền Thánh. Đó là nhân duyên thứ tư.
Đa văn, quảng bác, ghi nhớ không quên các pháp thâm áo, hay khéo ở khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối, có nghĩa có vị, chân thật, đầy đủ phạm hạnh. Sau khi nghe thì ghi nhớ trong lòng, kiến giải không lay động. Đó là nhân duyên thứ năm.
Tu tập tinh cần, diệt ác tăng thiện, gắng sức thực hành không bỏ pháp ấy. Đó là nhân duyên thứ sáu.
Bằng trí tuệ mà nhận thức pháp sanh diệt, chỗ thú hướng của Hiền Thánh, tận cùng biên tế của khổ. Đó là nhân duyên thứ bảy.
Quán tướng sanh và tướng diệt của năm thọ ấm: Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là thọ tưởng, hành, thức.
Đây là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức, sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức. Đó là nhân duyên thứ tám, khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh mà sở đắc trí, nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tuệ tăng trưởng.
Thế nào là tám tu pháp?
Đó là tám con đường của hiền Thánh: Chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định.
Thế nào là tám giác pháp?
Đó là tám pháp ở đời: Lợi, suy, vinh, nhục, khen, chê, khổ, lạc.
Thế nào là tám diệt pháp?
Đó là tám tà: Tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định.
Thế nào là tám thối pháp?
Đó là tám pháp giải đãi.
Tám pháp giải đãi là những gì?
Tỳ Kheo lười biếng, khất thực nhưng không được thực, bèn suy nghĩ: Hôm nay ta khất thực dưới xóm nhưng không được thực, thân thể mệt mỏi không đủ sức tọa thiền kinh hành.
Ta nên nghỉ ngơi. Tỳ Kheo lười biếng suy nghĩ như vậy và nằm nghỉ, không chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ nhất.
Tỳ Kheo lười biếng nhận được thức ăn đầy đủ, lại suy nghĩ: Sáng nay ta vào xóm khất thực, nhận được thức ăn và ăn quá no, thân thể nặng nề không thể tọa thiền kinh hành.
Ta nên ngủ nghỉ. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, không chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ hai.
Tỳ Kheo lười biếng, giả sử có làm chút công việc, bèn suy nghĩ: Ngày nay ta làm việc, thân thể mệt mỏi không thể tọa thiền kinh hành.
Ta nên ngủ nghỉ. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, không chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ ba.
Tỳ Kheo lười biếng, giả sử có chút việc sẽ phải làm, bèn suy nghĩ: Ngày mai ta sẽ làm việc, thân thể sẽ mệt mỏi, vậy hôm nay không thể tọa thiền kinh hành. Ta nên nghỉ ngơi trước. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ. Đó là sự giải đãi thứ tư.
Tỳ Kheo lười biếng, giả sử có đi lại chút ít bèn suy nghĩ: Sáng nay ta đi lại, thân thể mệt mỏi, không thể tọa thiền kinh hành. Ta nên ngủ nghỉ. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ. Đó là sự giải đãi thứ năm.
Tỳ Kheo lười biếng, giả sử sẽ phải đi lại chút ít, bèn suy nghĩ: Ngày mai ta sẽ phải đi lại, thân thể sẽ mệt mỏi, vậy hôm nay không thể tọa thiền kinh hành.
Ta nên nghỉ ngơi trước. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, không chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ sáu.
Tỳ Kheo lười biếng, giả sử gặp chút bệnh hoạn, bèn suy nghĩ: Nay ta bệnh nặng, mệt nhọc gầy yếu, không thể tọa thiền kinh hành.
Ta nên ngủ nghỉ. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, không chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ bảy.
Tỳ Kheo lười biếng, khi bệnh đã bớt, bèn suy nghĩ: Ta khỏi bệnh chưa lâu, thân thể gầy yếu, không thể tọa thiền kinh hành.
Ta nên ngủ nghỉ. Tỳ Kheo lười biếng liền ngủ nghỉ, không chịu siêng năng để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Đó là sự giải đãi thứ tám.
Thế nào là tám tăng pháp?
Đó là tám sự không biếng nhác.
Tỳ Kheo vào xóm khất thực nhưng không được thức ăn, bèn suy nghĩ: Ta thân thể nhẹ nhàng, ít buồn ngủ, vậy ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ nhất.
Tỳ Kheo khất thực được đủ, bèn suy nghĩ: Nay ta vào xóm khất thực được no đủ, khí lực sung túc, ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ hai.
Tỳ Kheo siêng năng giả sử có chút công việc phải làm, bèn suy nghĩ: Ta vừa làm công việc mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ ba.
Tỳ Kheo siêng năng giả sử có công việc sẽ phải làm, bèn suy nghĩ: Ngày mai ta sẽ làm công việc mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ tư.
Tỳ Kheo siêng năng giả sử có chút đi lại, bèn suy nghĩ: Ta sáng nay đi lại mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ năm.
Tỳ Kheo siêng năng giả sử sẽ phải đi lại, bèn suy nghĩ: Ngày mai ta sẽ phải đi lại mà bỏ phế sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ sáu.
Tỳ Kheo siêng năng giả sử bị bệnh hoạn, bèn suy nghĩ: Ta nay bệnh nặng, có thể mạng chung. Nay ta hãy tọa thiền kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ bảy.
Tỳ Kheo siêng năng khi bệnh có chút thuyên giảm bèn suy nghĩ: Ta bệnh mới khỏi, biết đâu nó tăng trở lại mà phế bỏ sự hành đạo. Nay ta hãy tinh tấn tọa thiền, kinh hành, để sở đắc những điều chưa sở đắc, thu hoạch những điều chưa thu hoạch, chứng những điều chưa chứng. Rồi Tỳ Kheo ấy liền siêng năng. Đó là sự tinh tấn thứ tám.
Thế nào là tám nan giải pháp?
Đó là tám sự không thuận lợi, cản trở sự tu tập phạm hạnh.
Những gì là tám?
Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vô vi, hướng về đạo giác ngộ, mà có người sanh vào địa ngục. Đó là trường hợp không thuận lợi, không thể tu tập phạm hạnh.
Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vô vi, hướng về đạo giác ngộ, mà có người sanh vào súc sanh ngạ quỷ, Cõi Trời trường thọ, biên địa vô thức, chỗ không có Phật pháp. Đó là trường hợp không thuận lợi, không thể tu tập phạm hạnh.
Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vô vi, hướng về đạo giác ngộ, hoặc có người sanh ở trung ương, nhưng có tà kiến, mang tâm điên đảo, thành tựu ác hành chắc chắn vào địa ngục. Đó là trường hợp không thuận lợi, không thể tu tập phạm hạnh.
Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vô vi, hướng về đạo giác ngộ, hoặc có chúng sanh sanh ở trung ương nhưng mù, điếc, câm, ngọng, không thể nghe pháp, tu hành phạm hạnh. Đó là trường hợp không thuận lợi, không thể tu tập phạm hạnh.
Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở đời, nói pháp vi diệu, tịch diệt, vô vi, hướng về đạo giác ngộ, hoặc có chúng sanh sanh ở trung ương, các căn đầy đủ để lãnh thọ Thánh Giáo nhưng không gặp Phật, không được tu hành phạm hạnh.
Đó là tám pháp không thuận lợi.
Thế nào là tám sanh pháp?
Đó là tám sự tỉnh giác của bậc Đại Nhân:
Đạo phải là ít dục, nhiều dục không phải là đạo.
Đạo phải là tri túc, không biết nhàm đủ không phải là đạo.
Đạo cần phải nhàn tĩnh, ưa đám đông không phải là đạo.
Đạo cần phải tự giữ, cười giỡn không phải là đạo.
Đạo cần phải tinh tấn, biếng nhác không phải là đạo.
Đạo cần phải chuyên niệm, hay quên lãng không phải là đạo.
Đạo cần phải định ý, loạn ý không phải là đạo.
Đạo cần phải có trí tuệ, ngu si không phải là đạo.
Thế nào là tám tri pháp?
Đó là tám trừ nhập:
Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc ít, hoặc đẹp hoặc xấu, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ nhất.
Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc vô lượng, hoặc đẹp hoặc xấu, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ hai.
Bên trong không có sắc tưởng, quán ngoại sắc ít, hoặc xấu hoặc đẹp, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ ba.
Bên trong không có sắc tưởng, quán ngoại sắc vô lượng, hoặc đẹp hoặc xấu, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ tư.
Bên trong không sắc tưởng, quán ngoại sắc xanh, màu xanh, ánh sáng xanh, cái nhìn xanh. Ví như màu xanh của sen xanh. Cũng như vải Ba La Nại màu xanh, thuần nhất. Màu xanh, ánh sáng xanh, cái nhìn xanh cũng được tưởng như vậy, thường quán thường niệm. Đó là trừ nhập thứ năm.
Bên trong không sắc tưởng, quán ngoại sắc vàng. Màu vàng, ánh sáng vàng, cái nhìn vàng. Ví như màu vàng của hoa vàng, vải Ba La Nại vàng. Màu vàng, ánh sáng vàng, cái nhìn vàng cũng được tưởng như vậy, thường quán, thường niệm. Đó là trừ nhập thứ sáu.
Bên trong không sắc tưởng quán ngoại sắc đỏ. Màu đỏ, ánh sáng đỏ, cái nhìn đỏ. Ví như ba màu đỏ, vải Ba La Nại đỏ, thuần nhất màu đỏ, ánh sáng đỏ, cái nhìn đỏ, cũng được tưởng như vậy thường quán, thường niệm. Đó là trừ nhập thứ bảy.
Bên trong không sắc tưởng, quán ngoại sắc trắng. Màu trắng, ánh sáng trắng, cái nhìn trắng. Cũng như màu trắng của hoa trắng, vải Ba La Nại trắng, thuần nhất. Cũng tưởng như vậy, màu trắng, ánh sáng trắng, cái nhìn trắng, thường quán, thường niệm. Đó là trừ nhập thứ tám.
Thế nào là tám chứng pháp?
Đó là tám giải thoát:
Bên trong có sắc tưởng, quán sắc: Giải thoát thứ nhất.
Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc: Giải thoát thứ hai.
Tịnh giải thoát: Giải thoát thứ ba.
Vượt sắc tưởng, diệt sân nhuế tưởng, an trú không xứ: Giải thoát thứ tư.
Vượt qua không xứ, an trú thức xứ: Giải thoát thứ năm.
Vượt qua thức xứ, an trú bất dụng xứ: Giải thoát thứ sáu.
Vượt qua bất dụng xứ, an trú hữu tưởng vô tưởng xứ: Giải thoát thứ bảy.
Vượt hữu tưởng vô tưởng xứ, an trú tưởng tri diệt: Giải thoát thứ tám.
Các Tỳ Kheo, đó là tám mươi pháp như thật không hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
Lại nữa, có chín thành pháp, chín tu pháp, chín giác pháp, chín diệt pháp, chín thối pháp, chín tăng pháp, chín nan giải pháp, chín sanh pháp, chín tri pháp, chín chứng pháp.
Thế nào là chín thành pháp?
Đó là chín tịnh diệt chi: Giới tịnh diệt chi, tâm tịnh diệt chi, kiến tịnh diệt chi, độ nghi tịnh diệt chi, phân biệt tịnh diệt chi, đạo tịnh diệt chi, trừ tịnh diệt chi, vô dục tịnh diệt chi, giải thoát tịnh diệt chi.
Thế nào là chín tu pháp?
Đó là chín gốc rễ của hỷ: Hỷ, ái, duyệt, lạc, định, như thật tri, trừ xả, vô dục, giải thoát.
Thế nào chín giác pháp?
Đó là chín nơi cư trú của chúng sanh:
Hoặc có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là Chư Thiên và loài người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh.
Lại có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là Trời Phạm Quang Âm lúc mới sanh. Đó là nơi cư trú thứ hai của chúng sanh.
Lại có chúng sanh với một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là Trời Quang Âm. Đó là nơi cư trú thứ ba của chúng sanh.
Lại có chúng sanh với một thân một tưởng giống nhau, tức là Trời Biến Tịnh. Đó là nơi cư trú thứ tư của chúng sanh.
Lại có chúng sanh không có tưởng và không có giác tri, tức là Trời Vô Tưởng. Đó là nơi cư trú thứ năm của chúng sanh.
Lại có chúng sanh an trú Hư không xứ. Đó là nơi cư trú thứ sáu của chúng sanh.
Lại có chúng sanh an trú thức xứ. Đó là an trú thứ bảy của chúng sanh.
Lại có chúng sanh an trú vô sở hữu xứ. Đó là nơi cư trú thứ tám của chúng sanh.
Lại có chúng sanh an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là nơi cư trú thứ chín của chúng sanh.
Thế nào là chín diệt pháp?
Đó là chín gốc rễ của ái: Nhân ái có tìm cầu, nhân tìm cầu có lợi, nhân lợi có dụng, nhân dụng có dục, nhân dục có dính trước, nhân dính trước có tật đố, nhân tật đố có bảo thủ, nhân bảo thủ có hộ.
Thế nào là chín thối pháp?
Đó là chín não pháp: Có người đã não hại ta, nó đang não hại ta, nó sẽ não hại ta, nó đã xâm hại cái ta thương yêu, nó đang xâm hại cái ta thương yêu, nó sẽ xâm hại cái ta thương yêu, nó đã yêu kính cái ta ghét, nó đang yêu kính cái ta ghét, nó sẽ yêu kính cái ta ghét.
Thế nào là chín tăng pháp?
Đó là chín vô não: Người kia đã xâm hại ta.
Nghĩ vậy chẳng có ích gì: Đã không sanh não, đang không sanh não, sẽ không sanh não. Nó xâm não cái ta yêu thương.
Nghĩ như vậy chẳng có ích gì: Đã không sanh não, đang không sanh não, sẽ không sanh não. Nó yêu thương cái ta ghét.
Nghĩ như vậy chẳng có ích gì: Đã không sanh não, đang không sanh não, sẽ không sanh não.
Thế nào là chín nan giải pháp?
Đó là chín phạm hạnh:
Nếu Tỳ Kheo có tín nhưng không trì giới, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín và có giới thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, nhưng không có đa văn, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, nhưng không thể thuyết pháp, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, nhưng không thể nuôi chúng, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, nhưng giữa đại chúng không thể quảng diễn pháp ngôn, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, giữa đại chúng có thể quảng diễn pháp ngôn, nhưng không chứng đắc Tứ Thiền, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng, lại đắc Tứ Thiền, thì phạm hạnh đầy đủ. Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, giữa đại chúng có thể quảng diễn pháp ngôn, lại chứng đắc Tứ Thiền, nhưng đối với tám giải thoát không thể thuận nghịch du hành, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng, lại đắc Tứ Thiền, đối với tám giải thoát có thể thuận nghịch du hành, thì phạm hạnh đầy đủ.
Nếu Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, giữa đại chúng có thể quảng diễn pháp ngôn, lại chứng đắc Tứ Thiền, đối với tám giải thoát có thể thuận nghịch du hành, nhưng không thể diệt tận các lậu, thành vô lậu tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát.
Ngay trong hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa, thì phạm hạnh không đầy đủ.
Tỳ Kheo có tín, có giới, có đa văn, có thể thuyết pháp, có thể nuôi chúng, có thể quảng diễn pháp ngôn giữa đại chúng, lại đắc Tứ Thiền, đối với tám giải thoát có thể thuận nghịch du hành, có thể diệt tận các lậu.
Thành vô lậu tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại mà tự thân tác chứng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa, thì phạm hạnh đầy đủ.
Thế nào là chín sanh pháp?
Đó là chín tưởng:
Tưởng về sự bất tịnh.
Tưởng về sự bất tịnh của thức ăn.
Tưởng về hết thảy thế gian không đáng ưa thích.
Tưởng về sự chết.
Tưởng về vô thường.
Tưởng vô thường là khổ.
Tưởng khổ là vô ngã.
Tưởng về sự diệt tận.
Tưởng về vô dục.
Thế nào là chín tri pháp?
Đó là chín dị pháp:
Sanh quả dị nhân quả dị.
Sanh xúc dị nhân xúc dị.
Sanh thọ dị nhân thọ dị.
Sanh tưởng dị nhân tưởng dị.
Sanh tập dị nhân tập dị.
Sanh dục dị nhân dục dị.
Sanh lợi dị nhân lợi dị.
Sanh cầu dị nhân cầu dị.
Sanh phiền não dị nhân phiền não dị.
Thế nào là chín chứng pháp?
Đó là chín tận:
Nếu nhập Sơ Thiền, thì gai nhọn là âm thanh bị diệt trừ.
Nhập đệ Nhị Thiền, thì gai nhọn là giác và quán bị diệt trừ.
Nhập đệ Tam Thiền, thì gai nhọn là hỷ bị diệt trừ.
Nhập đệ Tứ Thiền, thì gai nhọn là hơi thở ra vào bị diệt trừ.
Nhập không xứ thì gai nhọn là sắc tưởng bị diệt trừ.
Nhập thức xứ thì gai nhọn là không tưởng bị diệt trừ.
Nhập bất dụng xứ thì gai nhọn là thức tưởng bị diệt trừ.
Nhập hữu tưởng vô tưởng xứ thì gai nhọn là bất dụng tưởng bị diệt trừ.
Nhập diệt tận định thì gai nhọn là tưởng và thọ bị diệt trừ.
Các Tỳ Kheo, đó là chín mươi pháp như thật không hư dối. Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
Lại nữa, có mười thành pháp, mười tu pháp, mười giác pháp, mười diệt pháp, mười thối pháp, mười tăng pháp, mười nan giải pháp, mười sanh pháp, mười tri pháp, mười chứng pháp.
Thế nào là mười thành pháp?
Đó là mười cứu pháp.
Tỳ Kheo đầy đủ hai trăm năm mươi giới, đầy đủ oai nghi, thấy lỗi nhỏ nhặt sanh tâm lo sợ lớn, chân chánh học giới, tâm không nghiêng lệch.
Có được thiện tri thức.
Ngôn ngữ trung chánh, nhẫn nhịn được nhiều điều.
Ưa cầu Thiện pháp, phân bố không tiếc lẫn.
Các đồng phạm hạnh có việc phải làm liền đến giúp đỡ không lấy làm mệt nhọc, làm được những việc khó làm và cũng dạy người khác làm.
Nghe nhiều, nghe xong thì ghi nhớ không hề quên.
Tinh tấn, diệt trừ bất thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp.
Thường tự chuyên niệm, không có tưởng khác, nhớ những hành vi thiện từ trước như thấy trước mắt.
Trí tuệ thành tựu, quán sự sanh diệt của các pháp, bằng pháp luật Hiền Thánh mà đoạn trừ gốc khổ.
Vui với sự nhàn cư, chuyên niệm tư duy, ở trung gian thiền, không có đùa giỡn.
Thế nào là mười tu pháp?
Đó là mười chánh hành: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh tri.
Thế nào là mười giác pháp?
Đó là mười sắc nhập: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân nhập, sắc, thanh, hương, vị, xúc nhập.
Thế nào là mười diệt pháp?
Đó là mười tà hạnh: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà trí.
Thế nào là mười thối pháp?
Đó là mười bất thiện hành tích: Thân có sát, đạo, dâm. Khẩu có hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt. Ý có tham lam, tật đố, tà kiến.
Thế nào là mười tăng pháp?
Đó là mười thiện hành: Thân không sát, đạo, dâm.
Khẩu không hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt.
Ý không tham lam, tật đố, tà kiến.
Thế nào là mười nan giải pháp?
Đó là mười Hiền Thánh Cư:
Tỳ Kheo trừ diệt năm chi.
Thành tựu sáu chi.
Xả một chi.
Y trên bốn.
Diệt dị đế.
Thắng diệu cầu.
Không trược tưởng.
Thân hành đã lập.
Tâm giải thoát.
Tuệ giải thoát.
Thế nào là mười sanh pháp?
Đó là mười trường hợp khen ngợi:
Nếu Tỳ Kheo tự mình đã có được tín tâm rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người có được tín tâm.
Tự mình đã trì giới rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người trì giới.
Tự mình thiểu dục rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người thiểu dục.
Tự mình tri túc rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người tri túc.
Tự mình ưa nhàn tĩnh rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người ưa nhàn tĩnh.
Tự mình đa văn rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đa văn.
Tự mình tinh tấn rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người tinh tấn.
Tự mình chuyên niệm rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người chuyên niệm.
Tự mình đắc thiền định rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đắc thiền định.
Tự mình đắc trí tuệ rồi lại nói cho người khác và cũng khen ngợi những người đắc trí tuệ.
Thế nào là mười tri pháp?
Đó là mười diệt pháp:
Người chánh kiến có thể diệt trừ tà kiến, diệt trừ sạch những gì là vô số ác duyên tà kiến mà khởi lên và thành tựu những gì là vô số thiện nhân nơi chánh kiến mà sanh khởi.
Người có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh trí có thể diệt trừ tà trí và vô số ác nhân tà trí sanh khởi cũng hoàn toàn bị diệt tận. Vô số thiện pháp, nhân nơi chánh trí sanh khởi, thảy đều được thành tựu.
Thế nào là mười vô học pháp?
Vô học chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, chánh trí. Các Tỳ Kheo, đó là trăm pháp như thật không hư dối.
Như Lai đã biết, rồi thuyết pháp một cách xác thực.
Bấy giờ, Xá Lợi Phất được Phật ấn khả. Các Tỳ Kheo sau khi nghe những điều Xá Lợi Phất thuyết, hoan hỷ phụng hành.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì - Phần Sáu - Giảng Rộng
Phật Thuyết Kinh Năm Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Phẩm Bảy - Phẩm Pháp Thành Tựu Của Năm đảnh Vương
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Hai Mươi Năm
Phật Thuyết Kinh đẳng Tập Chúng đức Tam Muội - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh Ba Pháp Quán Bảy Xứ - Kinh Số Tám
Phật Thuyết Kinh Na Tiên Tỳ Kheo - Phẩm Mười Chín - Phẩm Linh Hồn
Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Mười Một - Niệm Mười Phương Phật