Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Bốn - Thiên Sáu Sứ - Chương Một - Tương ưng Sáu Xứ - Năm Mươi Kinh Thứ Hai - Phẩm Từ Bỏ - Phần Bốn - Sống Phóng Dật Pamàdavihàri

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT

KINH TƯƠNG ƯNG BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán

 

TẬP BỐN

THIÊN SÁU SỨ  

CHƯƠNG MỘT

TƯƠNG ƯNG SÁU XỨ  

NĂM MƯƠI KINH THỨ HAI  

PHẨM TỪ BỎ  

PHẦN BỐN

SỐNG PHÓNG DẬT PAMÀDAVIHÀRI

 

Nhân duyên ở Sàvatthi,

Này các Tỳ Kheo, ta sẽ thuyết cho các ông về trú phóng dật và trú không phóng dật.

Hãy lắng nghe.

Và này các Tỳ Kheo, thế nào là trú phóng dật?

Ai sống không nhiếp hộ nhãn căn, này các Tỳ Kheo, thời tâm người ấy bị nhiễm ô vyàsincati đối với các sắc do mắt nhận biết.

Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan.

Do không có hân hoan nên không có hỷ.

Do không có hỷ nên không có khinh an.

Do không khinh an nên khổ an trú. Với người đau khổ, tâm không có thể định tĩnh.

Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển lộ.

Do các pháp không hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú phóng dật, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, ai sống không nhiếp hộ ý căn, tâm bị nhiễm ô đối với các pháp do ý nhận biết.

Với người tâm bị nhiễm ô thời không có hân hoan.

Do không hân hoan nên không có hỷ.

Do không có hỷ nên không có khinh an.

Do không có khinh an nên khổ an trú.

Với người đau khổ, tâm không có thể định tĩnh. Do tâm không định tĩnh, các pháp không hiển lộ. Do các pháp không hiển lộ, người ấy được gọi là người an trú phóng dật.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, là an trú phóng dật.

Và như thế nào, này các Tỳ Kheo, là an trú không phóng dật?

Ai sống nhiếp hộ nhãn căn, tâm không bị nhiễm ô đối với các sắc do mắt nhận biết. Với người tâm không bị nhiễm ô thời hân hoan sanh.

Do có hân hoan nên hỷ sanh.

Do có hỷ sanh nên thân được khinh an.

Do thân khinh an nên cảm lạc thọ.

Với người an lạc, tâm được định tĩnh.

Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ.

Do các pháp được hiển lộ, người ấy được gọi là người trú không phóng dật, nhĩ căn, tỷ căn.

Thiệt căn, thân căn.

Ai sống nhiếp hộ ý căn, tâm không bị nhiễm ô đối với các pháp do ý nhận biết.

Với người tâm không bị nhiễm ô thời hân hoan sanh.

Do có hân hoan nên hỷ sanh.

Do có hỷ tâm nên thân được khinh an.

Do thân khinh an nên cảm lạc thọ.

Với người an lạc, tâm được định tĩnh.

Do tâm định tĩnh, các pháp được hiển lộ.

Do các pháp được hiển lộ, người ấy được gọi là người trú không phóng dật.

Như vậy, này các Tỳ Kheo, là trú không phóng dật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần